5 bài văn mẫu Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia

5/5 - (1 bình chọn)

Đề bài: Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc một tang gia của Vũ Trọng Phụng.

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

– Đôi nét về tác giả Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia: Một cây bút hiện thực chủ nghĩa tiêu biểu của văn học nước ta trước Cách mạng tháng 8. Hạnh phúc của một tang gia được trích trong tiểu thuyết hiện thực thành công của ông

– Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã được xây dựng thành công bởi nghệ thuật trào phúng đặc sắc

II. Thân bài

1. Nghệ thuật trào phúng là gì?

– Trào phúng : nghệ thuật gây ra tiếng cười mang ý nghĩa phê phán xã hội.

– Để gây được tiếng cười trào phúng, điều quan trọng nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn và tổ chức truyện làm nổi bật mâu thuẫn đó

2. Nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích

   a. Mâu thuẫn trào phúng được xây dựng thành công

– Thể hiện ngay trong tựa đề:

    + “Tang gia”: nhà có đám, đáng ra với hoàn cảnh đó, không khí phải tràn ngập nhiều buồn tiếc

    + “Hạnh phúc”: Cảm xúc khi gặp chuyện nhiều niềm vui, đây là cảm xúc đối lập hẳn với hoàn cảnh “tang gia”

⇒ nhan đề chứa đựng mâu thuẫn trào phúng hàm chứa tiếng cười chua chát, kích thích trí tò mò của người đọc:

– Thể hiện trong niềm vui của những người trong gia đình và ngoài gia đình:

    + Nhà chuyện buồn nhưng mỗi nhân vật trong gia đình đều không giấu nổi niềm vui bởi mình sẽ đạt được mục đích khác nhau

    + Những người ngoài gia đình: Mừng vui vì được khoe mẽ, chim chuột, được xem đám ma to…

– Mâu thuẫn trào phúng xuyên suốt cảnh đám ma: một đám ma rất to, rất đông, được tiến hành rất trọng thể, đúng là một đám ma gương mẫu. Nhưng kỳ thực lại giống một đám hội, đám rước.

   b. Nhân vật trào phúng

– Cố Hồng: vui vì được diễn trò già yếu trước mọi người, mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo ⇒ con người háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình

– Ông Văn Minh: thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành chứ không còn trên lý thuyết viễn vông nữa.

– Bà Văn Minh: mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.

– Cô Tuyết: Được dịp mặc y phục “ngây thơ” để chứng tỏ mình hãy còn trinh tiết, cô cũng buồn nhưng là “buồn lãng mạn” vì không thấy người tình của mình

– Cậu Tú Tân: sướng điên người lên vì được dịp sử dụng cái máy ảnh đã lâu không có dịp dùng đến

– Ông Phán: Sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu mình lại có giá trị.

– Xuân tóc đỏ: Hạnh phúc đặc biệt vì nhờ hắn mà cụ Tổ chết, danh giá uy tín lại càng to hơn.

– Cảnh sát Min Đơ và Min Toa:“giữa lúc không có ai đáng bị phạt…đương buồn rầu…thì sung sướng cực điểm”.

– Bạn bè cụ cố Hồng: những kẻ vừa háo danh, vừa háo sắc, họ chia buồn để khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương

– Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chu ý vào những kiểu quần áo tang…

⇒ Bức tranh trào phúng chân thực mang đậm tính hài hước, nhân vật trào phúng thể hiện rõ nét, ai cũng tìm thấy niềm vui trong đám tang đáng lẽ ra nên buồn thương

   c. Cảnh tượng trào phúng

– Cảnh đưa đám:

    + Chậm chạp và nhốn nháo

    + Các loại kèn ta, Tây , Tàu lố lăng

    + Người đi đám nói chuyện bàn tán

    + Điệp khúc “Đám cứ đi”

– Cảnh hạ huyệt:

    + Cậu Tú bắt mọi người tạo dáng chụp ảnh

    + Cụ cố Hồng: tỏ ra chí hiếu nhưng lại lộ sự giả dối

    + Phán mọc sừng khóc oặt người đi nhưng lại giúi vào tay Xuân tờ 5 đồng rồi lại khóc oặt người đi

⇒ Càng thể hiện rõ sự “trào phúng” của đoạn trích

III. Kết bài

– Khẳng định nghệ thuật trờ phúng đã được thể hiện thành công trong đoạn trích

– Nghệ thuật trào phúng góp phần phơi bày những hợm hĩnh, lố lăng, bịp bợm của xã hội tượng lưu.

Bài văn mẫu 1

    Vũ Trọng Phụng không chỉ được biết đến là “ông vua phóng sự đất Bắc” mà còn được biết đến là một nhà tiểu thuyết hiện thực đại tài. Dù thời gian sáng tác ít ỏi, nhưng ông đã để lại cho văn học Việt Nam hiện đại những tác phẩm xuất sắc: Giông tố, Số đỏ, Kĩ nghệ lấy tây, … Các tác phẩm của ông thường đi sâu phân tích, khám phá những mâu thuẫn trong đời sống, phê phán lối sống giả dối của xã hội thượng lưu đương thời thông qua nghệ thuật trào phúng đặc sắc. Tất cả những đặc điểm đó đã được phán ánh trong đoạn trích: Hạnh phúc một tang gia trích từ tiểu thuyết Số đỏ.

    Trước hết ta cần hiểu nghệ thuật trào phúng là gì? Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật tạo nên những mâu thuẫn, tạo nên những tiếng cười mang tính chất đả kích, châm biếm sâu cay những hiện tượng đáng cười trong xã hội, từ đó tạo nên tiếng cười mang dụng ý phê phán và lên án xã hội.

    Trước hết nghệ thuật trào phúng được thể hiện ở mâu thuẫn trào phúng. Mẫu thuẫn này đã được bộ lộ ngay từ nhan đề của tác phẩm. Hạnh phúc vốn là khái niệm chỉ trạng thái tâm lí vui sướng, hân hoan khi đạt được điều gì đó. Còn tang gia vốn là một nỗi buồn, nỗi đau cho các thành viên trong gia đình cũng như người xung quanh. Còn trong trường hợp này, tang gia lại trở thành niềm vui, sự hạnh phúc cho tất cả mọi người.

    Cả gia đình cụ cố Hồng đều cho sự sống của cụ cố tổ là bất thường, bởi cụ đã sống quá lâu, số tài sản mà họ mong ngóng mãi không thể nhận được. Bởi vậy, việc Xuân Tóc Đỏ làm cho cụ cố tổ tức chết đã làm mãn nguyện tất cả những thành viên trong gia đình, từ đây tài sản kếch xù mà họ nhòm ngó bấy lâu nay sẽ được chia. Trong niềm vui chung được nhận gia sản, mỗi người họ lại có những niềm vui riêng, niềm vui của họ quả là muôn màu, muôn vẻ. Cụ cố Hồng hám danh, thích khoe mẽ, thì đây chính là cơ hội để cụ được mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy để cho người ta khen: “úi kìa, con gia nhớn đã già thế kia à”, để người ta thấy phúc phận mà người chết được hưởng. Vợ chồng Văn Minh và TYPN thì lại sung sướng khi có thể biến đám tang thành sàn diễn thời trang, lăng xê những mẫu quần áo mới nhất của họ. Còn ông Phán mọc sừng nhận ra giá trị lớn đôi sừng trên đầu, vì đôi sừng đó mà lão nhận thêm được vài nghìn trong số gia sản tiền đền bù danh dự. Cô Tuyết ngây thơ được trưng diện những bộ đồ hở hang, “ngây thơ” chứng tỏ mình còn trong trắng. Riêng với cậu Tú Tân, cậu sẽ được đem chiếc máy ảnh vào thực hành. Không chỉ vậy, những kẻ ngoài gia đình cũng tìm được hạnh phúc cho mình: Min Đơn Min Toa đang thất nghiệp bỗng có việc làm; bàn bè cụ cố có dịp khoe huân chương đầy ngực,… Ngoài ra mâu thuẫn trào phúng còn phải kể đến Xuân Tóc Đỏ: hắn là người gây ra cái chết của cụ cố, vốn có tội lại thành có công, sự vắng mặt của Xuân khiến cho tất thảy mọi người phải lo lắng: “Thiếu ông đốc tờ Xuân là thiếu tất cả, những ông thầy thuốc chính hiệu đã thất bại hoàn toàn”. Như vậy một gia đình tự gán cho mình cái mác văn minh, một xã hội âu hóa nhưng đều là những kẻ bất hiếu, độc ác, đây là xã hội lố lăng, không có chút tình người.

    Không chỉ vậy, để tô đậm chất trào phúng trong đoạn trích, Vũ Trọng Phụng đã lựa chọn những chi tiết đắt giá, đầy ấn tượng. Đó là cảnh đám ma đông vui, ồn ã như một đám hội. Đám ma đó là sự kết hợp lố lăng, Tây – Tàu – Ta lẫn lộn, người đi rước chẳng chút buồn thương, họ không hề quan tâm đến người chết. Kẻ thì nói chuyện chồng con, hàng xóm, kẻ thì tận dụng cơ hội để chim chuột nhau,… “đám cứ đi” và tiếp tục câu chuyện của mình. Điệp từ “đám cứ đi” được lặp đi lặp lại nhiều lần cho thấy sự giả tạo, đi chậm lại không phải quyến luyến, tiếc thương mà là để cố khoe sự giàu có, hào nhoáng của gia đình, của đám tang.

    Quay đến cận cảnh, Vũ Trọng Phụng hướng ngòi bút vào cậu Tú Tân đang hò hét, la ó mọi người đứng tư thế sao cho đẹp nhất để cậu chụp ảnh, người phải chống gậy, kẻ phải gục đầu, người phải lau nước mắt,… ; bà Văn Minh sốt ruột,… cụ cố Hồng mếu máo, khóc ngất đi; còn ông Phán mọc sừng trong lúc đau đớn khóc oặt cả người vẫn tận dụng cơ hội để tạo ra một cuộc mua bán, trao đổi chóng vánh với Xuân Tóc Đỏ, tờ năm đồng được gấp làm tư, nhanh chóng đưa vào tay Xuân Tóc Đỏ cùng với đó là niềm hi vọng sẽ có cơ hội hợp tác ở những lần khác hiệu quả hơn nữa. Họ quả là những kẻ diễn viên đại tài.

    Ngoài ra còn phải kể đến ngôn ngữ trào phúng, phóng đại bậc thầy. Vũ Trọng phụng rất tinh tế khi sử dụng các từ ngữ gây cười, từ cách gọi tên sự vật: lợn quay đi lọng, lốc bốc xoảng, bú dích,… đến cách đặt tên các nhân vật: TYPN, Min Đơ, Min Toa, ông Phán mọc sừng, sư cụ Tăng Phú… đều diễn đạt một cách ý nhị thái độ châm biếm của ông. Những hình ảnh so sánh vi von hài hước: Cảnh sát không được biên phạt buồn như nhà buôn vỡ nợ; Từ chối việc chạy chữa như những vị danh y biết tự trọng… diễn tả chính xác bản chất nhân vật và sự thối nát của xã hội. Hình ảnh đậm tính chất trào phúng: “Tuyết đi mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt nhà có đám”,… Giọng văn đậm chất châm biếm: Thật là một đám ma to tát ; Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm… Tất cả những yếu tố nghệ thuật đó đã tạo nên giá trị mỉa mai sâu cay, đặc sắc, tố cáo, vạch trần sự giả dổi, đểu cáng trong nhân cách của những kẻ giàu có trong xã hội đương thời.

    Bằng bút pháp trào phúng đặc sắc, giọng điệu châm biếm, trào phúng sâu cay Vũ Trọng Phụng đã vô cùng thành công khi vạch trần bộ mặt xã hội giả dối, bất nhân. Tiếng cười bật lên vừa hỏm hỉnh vừa sắc sảo, qua đó thể hiện thái độ coi thường, kinh bỉ cái xã hội âu hóa lố lăng, tầng lớp thị dân lố bịch đương thời.

Bài văn mẫu 2

   Nếu như trong thời kì văn học trung đại ta được biết đến nghệ thuật trào phúng qua những sáng tác thơ ca của cụ Tam nguyên Yên Đổ-Nguyễn Khuyến hay Tú Xương thì trong nền văn học Việt Nam hiện đại nó lại được thể hiện xuất sắc trong thể loại tiểu thuyết với tác phẩm “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng-ông thầy trào phúng. Tiêu biểu là đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” thể hiện thành công nghệ thuật trào phúng qua các khía cạnh như: tình huống, nhân vật, chi tiết nghệ thuật đặc sắc đã tái hiện lại bức tranh xã Việt Nam lúc bấy giờ.

   Nghệ thuật trào phúng là gì? Nghệ thuật trào phúng trong văn học là sáng tác sử dụng tiếng cười để châm biếm, đả kích thói hư tật xấu trong xã hội qua đó thể hiện thái độ của người viết là chê bai, phê phán hay răn bảo mang ý nghĩa giáo dục. Nó đòi hỏi nhà văn trào phúng tài năng phải phát hiện và xây dựng tình huống mẫu thuẫn, chân dung và chi tiết trào phúng đặc sắc.

   “Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết làm nên thành công nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng. Câu chuyện kể về nhân vật chính là Xuân tóc đỏ một kẻ bị coi là hạ lưu nhưng bằng lời nói dối ngọt ngào và thủ đoạn mưu mô đã nhảy lên được tầng lớp thượng lưu danh giá của xã hội Âu hóa lúc bấy giờ. Qua đó nhà văn phê phán những con người nhố nhăng trong xã hội đang buổi giao thời Đông Tây lũng loạn.

   “Hạnh phúc của một tang gia” là lời tựa đề chương XV trong “Số đỏ”. Đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật trào phúng sắc sảo trong đám tang của cụ cố Hồng. Nghệ thuật trào phúng được thể hiện qua các phương diện sau:

   Thứ nhất trào phúng ngay trong nhan đề của đoạn trích. “Hạnh phúc của một tang gia”. Hạnh phúc là trạng thái cảm xúc sung sướng khi thỏa mãn được mong muốn. Tang gia là gia đình có người qua đời. Xưa nay tang gia phải là đau khổ, buồn bã bao phủ lên là không khí bi thương, sầu não, lệ nhòa. Gia đình có người mất phải khóc lóc, thương tâm vậy mà ở đây lại trái ngược hoàn toàn. Tang gia mà lại hạnh phúc. Cái chết đem đến cho cả dòng họ một niềm vui vỡ òa. Nhan đề đã thể hiện nét trào phúng rõ rệt, nó đi ngược lại với lẽ tự nhiên, nó khiến cho con người ta bất ngờ, tò mò muốn tìm hiểu bởi sự mâu thuẫn khác thường và lôi cuốn.

   Thứ hai: trào phúng trong chân dung các nhân vật. Tang gia mà từ con cái, cháu chắt người trong người ngoài đều vui mừng. Bởi đối với họ ai nấy cũng cảm thấy đây là một dịp may hiếm có, một cơ hội đặc biệt để thỏa mãn ý muốn của mỗi người. Cái chết ấy đồng nghĩa với tờ di chúc sẽ được đi vào thực thi chứ không còn là những dòng chữ trên tờ giấy. Tất cả mọi người sẽ sung sướng vì được chia tài sản, đó là hạnh phúc của tiền bạc danh lợi chứ không phải là tình cảm thương xót chân thành của người thân yêu dành cho người đã khuất. Là người lớn tuổi nhất ở gia đình trong hoàn cảnh bố mất, thi hài còn đang nằm dưới nhà mà cụ cố Hồng vẫn nằm trên gác “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa””. Đối với ông ta đám tang này là một cơ hội để khoe danh khoe của chứ không phải là tình thương của người con dành cho bố.

   Cái chết của cụ cố Tổ làm cho nhiều người sung sướng trong đó hả hê nhất là ông Phán mọc sừng: “ông đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia thêm một số tiền vài trăm nghìn đồng” bởi chính đôi sừng vô hình trên đầu ông ta làm cho cụ tổ uất ức mà chết, niềm vui ấy chạy trong từng mạch máu thế mà đến phút giây cuối cùng khi vĩnh biệt người chết lại khóc “Hứt hứt” oặt người đi. Ngay trong tên gọi “Phán mọc sừng” cũng đã thấy sự mỉa mai, châm biếm không hề nhẹ. Tại sao Vũ Trọng Phụng không gọi là Phán bị cắm sừng mà lại là mọc sừng? Đó là một dụng ý nghệ thuật. Bởi con người ta có thêm đôi sừng vô hình trên đầu là ý nói về việc bị người yêu hoặc vợ ngoại tình. Đây là một điều không ai mong muốn xảy ra nhưng đối với ông Phán là ông mọc sừng tức thể hiện sự tự nguyện và ông lấy làm hãnh diện nên đã làm ngay với Xuân một cuộc doanh thương trước đó chỉ để quảng bá về đôi sừng của mình.

   Ông Văn Minh-cháu nội đích tôn hớn hở mời luật sư đến vì cái chúc thư không còn là lí thuyết viển vông nữa. Hắn vò đầu bứt tóc với điệu bộ bối rối phù hợp với tang gia nhưng thực chất là đang không biết đối xử với Xuân thế nào cho phải trước hai cái tội nhỏ, một cái ơn to. Nhà văn đã vạch trần bộ mặt giả dối bất nhân bất nghĩa bất hiếu của nhân vật.

   Bà Văn Minh thì suốt ruột vì mãi không được mặc bộ xô gai tân thời. Đối với cô Tuyết đây là dịp để trưng diện “bộ y phục Ngây thơ-cái áo dài voan mỏng, trong có cooc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú- nhưng mà viền đen và đội mũ mấn xinh xinh” và để chứng minh cho thiên hạ là cô chưa đánh mất cả chữ trinh mà vẫn còn một nửa. Cậu Tú Tân thì điên người lên vì hào hứng “đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến” đám tang là dịp để cậu thực hiện sở thích nghệ thuật của mình. Đúng là một lũ con cháu bất hiếu không có tình người, một đám người của một gia đình lố lăng. Mỗi người chỉ bằng một vài nét chấm phá mà tất cả đều hiện lên thật sống động. Tất cả những con người ấy trong gia đình ấy là một xã hội thu nhỏ với những thói hư tật xấu tập trung hết ở đây.

   Chân dung của những người ngoài gia đình dù chẳng được hưởng lợi lộc gì từ tài sản nhưng cũng vui mừng không kém. Đó là sự vui vẻ ra mặt của hai cảnh sát min đơ và min toa đang thất nghiệp lại kiếm lời từ một cái chết. Đó là Xuân tóc đỏ mưu mô quỷ kế giết được cụ cố Tổ lại đến dự đám tang với một vòng hoa khiến cho mọi người phải thán phục. Đó còn là bạn bè của cụ cố Hồng và sư cụ tăng phú được dịp phô diễn huân chương và khoe mẽ tài năng. Quả thực đây là “một đám ma to làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng”. Qua đó Vũ Trọng Phụng lên án xã hội không có tình người, mất đi giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc.

   Thứ ba: trào phúng qua các chi tiết nghệ thuật đắt giá trong đám tang. Với cảnh chuẩn bị đám tang của cụ cố là ngày hội của gia đình và làng xóm. Người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, náo nức gọi phường kèn, tíu tít thuê xe đám và sốt ruột khi chưa thấy phát tang. Không khí đám tang như đám rước hội “Kèn Tây, kèn Ta, kèn Tàu lần lượt tahuy nahu mà rộn lên”, thành phần đưa đám đầy đủ cả từ già đến trẻ, từ cảnh sát đến sư sãi, từ thằng lưu manh giả nhà cải cách xã hội cho đến nhà thiết kế thời trang…Đưa đám là quãng thời gian mặc niệm để đưa người chết về nơi an nghỉ cuối cùng vậy mà trong lúc nà, ở nơi này “họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau..” mặt người vẻ buồn rầu hợp với người đi đưa nhưng trong thâm tâm của họ không một chút thương tiếc cho người đã khuất. Nhà văn như nhà quay phim tài ba lia ống kính quay chậm từng cảnh, từng người, từng gương mặt, từng trái tim trong đám tang. Đặc biệt ở cảnh hạ huyệt là lúc các nhân vật thể hiện vai diễn của mình xuất sắc nhất, diễn nhập vai là tang gia nhất. Cậu Tú Tân bắt bẻ từng người hoặc chống gậy hoặc còng lưng hoặc lau nước mắt thế nọ thế kia để chụp ảnh làm kỉ niệm. Bạn bè thì rầm rộ nhảy lên những đống mả khác mà chụp để ảnh khỏi giống nhau. Chỉ với chi tiết nho nhỏ này nhưng có giá trị to lớn nó làm rõ hơn mục đích đến đám tang của những người đưa đám. “Cụ cố Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi”. Ông Phán khóc oặt người mãi không thôi nhưng vẫn không quên dúi vào tay Xuân tờ năm đồng bạc gấp làm tư để trả công hắn ta đã giết được cụ tổ. Ông tỏ ra mình là một người giữ chữ tín. Kẻ bất lương đeo mặt nạ của một người con có hiếu được tác giả dùng ngòi bút lột tả sạch sẽ. Đằng sau đó là sự thô bỉ đến vô liêm sỉ của giới thương lưu trong xã hội tư sản thành thị thực dân nửa phong kiến. Màn hài kịch được miêu tả thật sinh động, hóm hỉnh đem đến cho người đọc cảm xúc vừa cười vừa buồn. Cười vì sự bịp bợp, sảo trá, ngụy trang đến thành thục. Buồn vì cách ứng xử của con người lúc bấy giờ chỉ biết chạy theo vật chất và giá trị văn hóa vớ vẩn.

   Bản thân sâu thẳm bên trong mỗi con người là cái khó nắm bắt, khó khám phá nhất nhưng bằng ngòi bút trào phúng tài năng, lối khắc họa chân thực từng chân dung nhân vật, Vũ Trọng Phụng đã lột tả được lối sống Tây hóa của tầng lớp tư sản. Có thể nói ông là cây bút trào phúng bậc thầy về sự thật với tuyên ngôn văn học đáng kính: “Các ông muốn cuốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn có cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời (…) Các ông muốn theo tiểu thuyết tuỳ thời, chỉ nói cái thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thực, thành ra nguy hiểm, vì sự thực mất lòng”. Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là một trong những sự thật lúc bấy giờ được nhà văn tái bút thành công với nghệ thuật trào phúng.

Bài văn mẫu 3

   Vũ Trọng Phụng là cây bút bậc thầy của nghệ thuật trào phúng. Vốn sẵn cái tài tình, cái sắc lạnh của một ông vua phóng sự Bắc kì, ông dường như được thỏa sức trong thế giới nghệ thuật ấy. Và Số đỏ là một minh chứng cho những sáng tạo không mệt mỏi của ông. Tác phẩm là đỉnh cao trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng, mà trong đó nếu coi thiên truyện là một màn đại hài kịch về xã hội thượng lưu thành thị trước Cách mạng tháng Tám 1945 thì chương truyện thứ XV, với cái tên độc đáo Hạnh phúc của một tang gia là một màn hài kịch đặc sắc nhất. Ở đó, tất thảy những giá trị của nghệ thuật trào phúng được nhà văn thể hiện một cách xuất sắc nhất.

    Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật gây cười nhằm đả kích, châm biếm những hiện tượng xấu xa trong đời sống xã hội. Nó được biểu hiện qua việc xây dựng những mâu thuẫn trào phúng, nhân vật trào phúng, cảnh tượng trào phúng, ngôn ngữ trào phúng, giọng điệu trào phúng… Trong tác phẩm Số đỏ nói chung và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia nói riêng, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã tạo nên chất trào phúng dựa trên những yếu tố đó, thậm chí còn đạt đến đỉnh cao.

    Trong chương truyện Hạnh phúc của một tang gia, mâu thuẫn trào phúng được thể hiện qua nhan đề và tình huống trào phúng. Chắc hẳn người đọc không khỏi bất ngờ, tò mò và buồn cười vì cái tên chương truyện có một không hai này. Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc sung sướng, vui mừng khi đạt được điều mình mong muốn, còn tang gia là thời khắc đau buồn, xót thương vì trong gia đình có người thân qua đời. Hai thứ vốn hoàn toàn đối lập, không thể đi liền với nhau, vậy mà giờ đây nó lại còn được đặt trong mối quan hệ sở hữu qua từ của. Trong tang gia lại có hạnh phúc, hay hạnh phúc xuất phát từ tang gia. Điều này thật nghịch lý, trớ trêu và quá hài hước. Nhưng đó lại là sự thật và không hề vô lý chút nào, khi câu văn mở đầu cho chương truyện được cất lên: Ba hôm sau cụ già chết thật. Người chết theo quy luật sinh lão bệnh tử cũng là lẽ thường tình. Vậy mà sao nhà văn lại dùng từ thật? Nghĩa là cụ già ấy đã từng chết giả? Nghe thật nực cười, nhưng đúng là như vậy, sau nhiều lần ốm thập tử nhất sinh, đám con cháu trong gia đình lo toan hết ông lang băm đến ông lang tây, thuốc nọ thuốc kia… mà cuối cùng ông cụ vẫn chưa chết. Bởi chúng đang mong ngóng từng ngày cụ từ giã cõi đời để còn được chia chác cái gia tài kếch xù. Vậy nên chúng vô cùng bất ngờ và mừng rỡ vì hôm nay cụ chết thật sau ba ngày chạy chữa. Cái chết ấy làm cho nhiều kẻ sung sướng lắm! Nhan đề và tình huống ấy đã tạo nên cái chất trào phúng vô cùng độc đáo. Người thân lại vui mừng, phấn khởi khi trong nhà có tang!

    Và thế là bao nhiêu bộ mặt giả dối của đám con cháu trong gia đình thượng lưu bậc nhất đất Hà thành ấy được nhà văn khắc họa đầy mỉa mai, châm biếm trong đám tang của cụ cố tổ. Mở màn là cụ cố Hồng – con giai nhớn của người mất. Ở địa vị này, ông ta phải là người đau buồn nhất, vì người cha đã không còn. Ông tỏ ra “buồn đau” thật khi mơ màng nghĩ đến cảnh tượng mặc đồ xô gai, miệng ho khạc, mếu máo, được dân tình bàn tán: “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!”. Trong cơn bối rối vì cha mất, ông không thể kiềm chế được mà hút đến sáu mươi điếu thuốc phiện, nói một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu: “Biết rồi khổ lắm nói mãi”. Kẻ luôn tự nhận “trên thông thiên văn, dưới tường địa lí” ấy thực chất chả biết cái gì. Ngày cha mất, ông ta hiện ra nguyên hình chân tướng của một kẻ háo danh, bất hiếu. Tiếp đến là ông Văn Minh, con trai cụ cố Hồng và là cháu trưởng của người mất. Cái vẻ đăm đăm chiêu chiêu rất hợp với gia đình có tang ấy lại không phải là nỗi buồn, mà Văn Minh còn bao nhiêu nỗi bối rối cần giải quyết. Ông ta sốt ruột vì sao luật sư còn chưa đến để chuyển cái chúc thư kia từ thời kì lý thuyết sang thực hành. Ông ta băn khoăn vì không biết xử trí thế nào với Xuân Tóc Đỏ kẻ có hai cái tội nhỏ là tố cáo tội hoang dâm của một người em gái ông và quyến rũ một người em gái khác của ông nhưng lại có một cái ơn to vì câu nói: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng” khiến cho ông cụ chết thật. Đám con cháu còn lại kẻ thì sốt ruột, la ó như bà Văn Minh vì chưa được phát tang để trưng diện những mốt tang phục của tiệm may Âu Hóa, kẻ thì phát điên người lên như cậu Tú Tân vì chưa được sử dụng những chiếc máy ảnh, kẻ thì buồn lãng mạn như cô Tuyết trong bộ dạng thất thần với bộ cánh Ngây thơ hở hang nhưng là mong ngóng người tình Xuân Tóc Đỏ mãi không đến, kẻ thì vô liêm sỉ đến mức tự hào vì cái sừng hươu vô hình trên đấu lại đáng giá vài nghìn bạc như ông Phán mọc sừng… Ai cũng có nỗi buồn riêng mà thành ra lại hợp mốt với nhà có tang. Nhưng rõ ràng Vũ Trọng Phụng đã dùng ngòi bút trào phúng đầy mỉa mai của mình để lột tả cái bản chất tàn nhẫn, bất hiếu, vô đạo đức bên trong được che lấp bởi cái vỏ bên ngoài quá giả tạo. Chân dung những kẻ trong gia đình thượng lưu ấy đã góp phần quan trọng làm cho nghệ thuật trào phúng của chương truyện thành công.

    Chưa dừng lại ở đó, ngòi bút trào phúng của nhà văn như con dao sắc lạnh, nó còn lia xa hơn, rộng hơn. Không chỉ những đám con cháu trong tang quyến, mà cả những người đến dự cũng được miêu tả một cách đầy mỉa mai. Có hai tên cảnh sát Min Đơ và Min Toa lại sướng điên người vì được thuê giữ trật tự đám ma khi đang thất nghiệp. Có ông Typn nhà thiết kế tiệm may Âu hóa bực bội vì sự chậm chễ trong việc phát tang khiến những bộ sưu tập tang phục của ông chưa được ra mắt công chúng. Có đám bạn ông cụ cố Hồng đầy những râu, những huân huy chương và cũng đầy xao xuyến, não nùng như điệu nhạc Xuân Nữ khi nhìn thấy làn da trắng thập thò dưới cánh tay và ngực cô Tuyết. Có sư cụ Tăng Phú xuất hiện như một ngôi sao đầy kiêu hãnh vì vừa lật đổ được hội phật giáo, đi cùng với cố vấn báo Gõ Mõ là Xuân Tóc Đỏ – kẻ gây ra cái chết của cụ cố tổ lại được đón tiếp nồng hậu. Cả đám giai thanh gái lịch bạn cô Tuyết đi dự đám tang như đi trẩy hội, tán tỉnh, chọc ghẹo… nhau một cách hồn nhiên. Tuy miêu tả nhiều nhân vật, nhưng nhà văn Vũ Trọng Phụng dường như không bỏ sót một nhân vật nào. Ai cũng hiện lên với những nét chân dung điển hình nhất. Điều ấy vừa cho thấy cái tài của nhà văn vừa thể hiện sức phản ánh hiện thực mạnh mẽ của tác phẩm. Không chỉ đám con cháu trong gia đình mà đến những kẻ ngoài xã hội cũng cùng một ruộc. Tất cả bọn chúng tạo nên một xã hội dị hợm, nhố nhăng, đồi bại, vô đạo đức mà nhà văn gọi là cải cách, văn minh, Âu hóa. Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng vì thế mà có sức công phá mạnh mẽ.

    Song có lẽ đọc chương Hạnh phúc của một tang gia, ngoài những chân dung biếm họa trên, người đọc chắc hẳn không thể quên cảnh tượng trào phúng mà tác giả dựng lên. Mơ ước của con trai cụ cố tổ là cụ cố Hồng sẽ phải làm một đám ma thật to tát, một đám ma gương mẫu, một đám ma danh giá nhất bậc Hà thành. Chính vì vậy cảnh tượng đám ma trong tác phẩm là một trong những thành công xuất sắc của nghệ thuật trào phúng mà nhà văn đã dụng công miêu tả. Trước hết là cảnh đám tang. Có lẽ do sự mong ngóng từ lâu nên nó đã được chuẩn bị kĩ lưỡng. Từ tang phục đến đồ vật, phụ kiện cho tang lễ đều chuẩn bị hoành tráng, chu đáo và tươm tất. Chỉ cần nhìn bộ đồ đám tang cô Tuyết mặc là đủ biết nó được thiết kế “cầu kỳ, tinh xảo” đến mức như thế nào, mà cả gia đình ấy đều hứng khởi, vui mừng. Đồ vật chuẩn bị cho đám tang thì không đám nào có thể bì được. Kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, có đủ các loại kèn Ta, Tây, Tàu, có đến ba trăm vòng hoa… Đoàn người đi đưa đám kéo dài cả mấy con phố. Không khí của đám tang cũng đặc biệt. Không tiếng khóc, không lời xót thương, không giọt nước mắt nào nhưng lại đầy rẫy sự ồn ào, hỗn loạn. Đám đi đến đâu huyên náo đến đó, người dân hàng phố đổ ra xem rồi trầm trồ khen ngợi, thành thử người chết nằm trong quan tài cũng gật gù cái đầu và mỉm cười sung sướng. Cảnh tượng ấy đúng hơn là một đám rước, một đám hội, chứ không phải đám tang!

    Và rồi thời khắc đau thương, xót xa nhất cũng đã đến – lúc hạ huyệt. Đây là lúc mà người âm kẻ dương sẽ vĩnh viễn, mãi mãi chia lìa, không bao giờ gặp lại. Vậy mà cảnh hạ huyệt trong chương truyện lại được ví như một màn trò hề lố bịch. Cụ cố Hồng mếu máo rồi ngất đi. Cậu tú Tân trong bộ tang phục luộm thuộm cùng đám bạn bè nhảy hết lên mả này đến mả khác, bắt mọi người phải uốn éo, tạo dáng, khóc như này, khóc như kia để chụp ảnh. Nhưng có lẽ diễn viên làm tròn vai nhất phải là ông Phán mọc sừng. Ông cháu rể quý hóa ấy khóc quá, khóc nức nở, khóc oặt cả người nhưng thực ra là để trá hình cho một vụ thương thảo với Xuân Tóc Đỏ. Cảnh tượng ấy khiến người đọc cười ra nước mắt. Những trò hề đầy đốn mạt, mất hết nhân tính, tình người dưới ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng đậm chất mỉa mai, châm biếm. Đến đây, chúng ta hiểu vì sao nhà văn lặp lại hai câu “Đám cứ đi…” trong lúc đưa tang. Cũng chẳng biết đây là đám ma hay đám gì nữa, nhưng đám cứ đi, cứ đi là đi đến cái huyệt để chôn sống hết những kẻ từ gia đình đến xã hội kia. Tiếng khóc Hứt! Hứt! Hứt! của Phán mọc sừng như thể là “Hất! Hất! Hất” tất cả xuống nấm mồ đó. Đám ma to tát, gương mẫu, danh giá nhất, cái gì cũng có nhưng lại thiếu cái quan trọng nhất, đó là Tình thương với người đã khuất. Sức tố cáo mạnh mẽ được khơi gợi lên từ những cảnh tượng đậm chất trào phúng độc đáo như thế này.

    Một trong những giá trị thành công của nghệ thuật trào phúng của tác phẩm thể hiện qua ngôn ngữ và giọng điệu. Trong đoạn trích không ít lần người đọc bật cười vì những từ ngữ đậm chất mỉa mai, châm biếm mà Vũ Trọng Phụng sử dụng. Nổi bật có những từ như “cả nhà ấy nhao lên”, từ nhao lột tả rất chân thực cái biểu hiện về sự bất ngờ, sung sướng của đám con cháu khi nghe tin cụ cố tổ chết, nhưng đồng thời cũng lột tả được cái bản chất nhơ bẩn của bọn chúng. Hay trong một đám tang của gia đình danh giá bậc nhất Hà thành này điều quan trọng nhất là sự trang nghiêm, tôn kính, quy củ. Ấy vậy mà tác giả không ít lần dùng những từ ngữ như nhốn nháo, vui vẻ, huyên náo… để mô tả không khí của đám tang. Trong khi đó còn chưa kể đến cách dùng tử miêu tả chân dung nhân vật đạt đến mức độ mỉa mai cao nhất, như: cụ cố Hồng mơ màng, ông Văn Minh băn khoăn, bối rối, đăm đăm chiêu chiêu, cô Tuyết buồn lãng mạn… Thi thoảng nhà văn lại chua thêm một số câu văn đến người đọc cũng “nhột cả người”: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm, Thật là đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu… Không chỉ là cảm giác cười hả hê, sung sướng, mà cười đến chảy nước mắt. Giọng điệu mỉa mai, chấm biếm “phủ sóng” khắp cả chương truyện. Không thể tưởng tượng một xã hội, một gia đình trong bối cảnh thời đại ấy lại có những biểu hiện mục nát, băng hoại đến mức độ như vậy.

    Không thể phủ nhận, Vũ Trọng Phụng có phần hơi gay gắt trong cách nhìn nhận đánh giá về hiện thực đời sống xã hội thành thị đương thời. Tuy nhiên với quan điểm nghệ thuật rất dứt khoát: tiểu thuyết phải là sự thật ở đời và ngòi bút trào phúng sắc lạnh, nhà văn đã đem đến cho người đọc những vết thương đã trở thành “ung nhọt” trong xã hội cần phải “chữa trị” gấp. Có nhiều người vẫn cho rằng: tuy Vũ Trọng Phụng không làm cách mạng nhưng cách mạng phải cảm ơn ông vì những cái nhìn hiện thực quá sâu sắc như vậy. Và nghệ thuật trào phúng chính là công cụ để giúp ông làm tốt điều này. Ông xứng đáng trở thành một trong những gương mặt nhà văn hiện thực tiêu biểu, xuất sắc của văn học giai đoạn 1930 – 1945.

Bài văn mẫu 4

   Là một nhà văn xuất sắc của nền văn học hiện thực phê phán, Vũ Trọng Phụng không chỉ là Ông vua phóng sự Bắc mà còn là một cây bút trào phúng đặc sắc nhất. Mỗi chương trong tác phẩm là một màn hài kịch. Chương XV Hạnh phúc một tang gia là màn hài kịch tiêu biểu.

    Hiệu quả trào phúng của đoạn trích Hạnh phúc một tang gia tạo lên bởi sự phát huy hiệu quả của hàng loạt các yếu tố trào phúng: mâu thuẫn trào phúng, những chân dung trào phúng. Những lời văn, giọng điệu trào phúng. Không có chi tiết nào không hướng tới mục đích bóc trần những sự lố lăng trong tang gia tràn trề hạnh phúc này.

    Để dàn dựng màn hài kịch nhà văn trước hết đã phát hiện ra mâu thuẫn trào phúng. Mâu thuẫn trào phúng trong chương truyện này được gợi ra trước hết ở cái tên của nó: Hạnh phúc một tang gia. Tang gia và hạnh phúc là hai căn từ ngữ đối nhau. Nói đến tang gia là nói đến một gia đình vừa có người thân mất. Theo quy luật tâm lí thông thường hẳn tang gia phải bao trùm cái không khí khổ đau, sầu thương não nề bởi mỗi khi một ngọn nến đời tắt đi là đề bao vết thương cho người sống. Vậy mà trong tang gia của một gia đình được xem là danh giá nhất Hà thành, trước cái chết của một người ông, người cha (cụ tổ) chẳng đứa con cháu nào của cụ sầu não, tiếc thương cả. Trái lại, cái chết ấy như đã đem đến một nguồn hạnh phúc to lớn không nén nổi cứ tuôn ra, trào ra.

    Tang gia mà hạnh phúc. Đó là chuyện là đời nhưng lại có thật. Vì sao cái chết của cụ tổ lại là hạnh phúc của cái tang gia đại bất hiếu này? Ấy là vì cụ tổ có một gia tài kếch xù. Bao ngày lũ con cháu hau háu trông đợi phần mình. Cụ cố Hồng chưa có dịp tỏ ra sự rộng rãi và biết điều của mình đối với bầy con trai, con gái, dâu, rể… Họ từng muốn giết chết cụ bằng bài thuốc Thánh nhưng cụ vẫn chưa chịu chết. Bây giờ mơ ước trở thành sự thực lẽ nào họ không vui. Đúng như Vũ Trọng Phụng nhận xét: Tang gia ấy ai ai cũng vui vẻ cả hoặc cái chết ấy làm cho nhiều người sung sướng lắm.

    Mâu thuẫn trào phúng không chỉ thể hiện ở tâm trạng mong cụ tổ chóng chết hay ở không khí chuẩn bị tang lễ mà còn thể hiện rõ nét ở hình thức tổ chức đám tang. Có thể nói âm điệu bi thương lẽ ra phải có ở một đám tang đã bị thay thế bằng âm điệu náo nức phấn khởi. Nhà văn đã nêu lên một giả định có ý châm biếm chua chát: Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Quả là ở thời buổi nhố nhăng này người ta đã quen sống trong sự lừa dối, rất thích lửa dối và thật sự hài lòng khi bị lừa dối.

    Trong màn hài kịch này còn có một chi tiết đặc sắc nữa tô đậm mâu thuẫn trào phúng đà nói. Đó là khi cụ tổ chết, người ta quan tâm việc mai táng cái xác chết ấy thì ít mà lo lắng bàn bạc việc chôn cái xác sống của cô Tuyết cùng cái tiếng hư hỏng của cô thì nhiều. Đám tang bị trì hoãn là vì thế. Người ta còn bận thu xếp cho êm ả chuyện cô tiểu thư hư hỏng, còn bận bịt tiếng xấu xa có thể làm tổn hại đến danh giá tang gia.

    Trong khi quan tâm tô đậm mâu thuẫn trào phúng, Vũ Trọng Phụng còn đồng thời vẽ lên nhiều bức chân dung trào phúng đặc sắc.

    Trước hết là cụ cố Hồng với câu nói cửa miệng: Biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Xưa nay cụ mới chỉ được diễn trò già yếu ở nhà, giờ cụ được ra mắt trước đám đông: Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt mơ màng đến lúc cụ mặt đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: úi giời ơi, trai lớn đã già đến thế kia kìa.

    Cô Tuyết thì sung sướng được mặc bộ y phục ngây thơ – cái áo voan mỏng… với cái tráp trầu cau và thuốc lá mời khách với vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt.

    Thật đáng cười cho chân dung trào phúng của ông Phán mọc sừng. Ông là kẻ vớ bở nhờ cái chết của cụ tổ. Có vẻ như nhờ thế mà ông bộc lộ nỗi đau xót của mình một cách ồn ào hơn ai hết: Ông oặt người khi khóc mãi không thôi: Hứt!… Hứt!. Nhưng trào phúng thay khi ông Phán dúi vào tay Xuân tờ bạc năm đồng. Màn kịch của ông Phán bị lột trần.

    Đây cũng là dịp may hiếm có để tiệm may Âu hóa và ông Typn có thể lăng xê những mốt trang phục mà có thể ban cho những ai có tang thương đau đớn vì kẻ chết cũng được chút ít hạnh phúc ở đời.

    Cậu tú Tân thì mừng quá và đang điên người lên vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mãi mà không được dùng đến.

    Còn Xuân Tóc Đỏ càng vênh váo vì nhờ hắn mà cụ Tổ lăn đùng ra chết.

    Hạnh phúc lan tràn cả ra ngoài gia đình người chết: Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang thất nghiệp bỗng được thuê giữ trật tự… Bạn bè cụ cố Hồng có điều kiện khoe khoang sự oai vệ của mình…

    Một trong những nét đặc sắc của ngòi bút trào phúng Vũ Trọng Phụng là sự thể hiện đám đông. Tác giả lùi ống kính thật xa quay toàn cảnh đám tang với điệp khúc đám cứ đi. Có khi tác giả lại quay cận cảnh để vạch trần bản chất nhố nhăng giả tạo của đám tang này. Vũ Trọng Phụng đã thể hiện ngôn ngữ trào phúng khi miêu tả một sế kiểu râu ria của các cụ: Có cụ lún phún rầm rậm, có vị râu hung hung, lại có vị râu loăn xoăn… Các cụ ấy đã thực sự cảm động vì làn da trắng nơi ngực và cánh tay cô Tuyết. Đến đưa ma cụ tổ phần đông là trai thanh gái lịch đất Hà thành ngàn năm văn hiến, đến với đám cốt để chim nhau, hò hẹn nhau… nói với nhau đủ chuyện hàng ngày, cho nên đám ma đông là thế, ồn ào náo nhiệt là vậy.

    Nghệ thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng còn hiện ra ở giọng điệu trong chương truyện. Nhà văn sử dụng giọng kể dửng dưng, giễu cợt, thậm chí bằng những lời ác khẩu. Luôn luôn có sự khập khiễng giữa sự vật được nói tới với giọng điệu câu văn: Ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bình tĩnh Bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chểt cụ tổ; điệp khúc đám cứ đi…, tiếng khóc cũng nhại lại đầy sự châm biếm: Hứt!… Hứt!… Hứt!…

    Tất cả những thành công đó chỉ có được ở cây bút trào phung bậc thầy của Vũ Trọng Phụng một xã hội nhố nhăng thị thành hiện lên chân thực sinh động. Nhà văn đã bóc trần bản chất xấụ xa, thói lừa bịp rởm đời chạy theo sống thị thành của hàng loạt người. Ngòi bút châm biếm của ông có sức mạnh ghê gớm bắt nguồn từ chính sự phẫn uất của ông. trước xã hội thực dân phong kiến – xã hội mà ông gọi là chó để này.

    Bằng tài năng, nghệ thuật trào phúng bậc thầy, qua việc tả người, dựng cảnh, sử dụng các chi tiết nghệ thuật biếm họa chận dung, ngốn ngữ hài hước… Chương truyện Hạnh phúc một tang gia như một làn roi quất mạnh vào xã hội thượng lưu tiểu tư sản thành thị hết sức lố lăng, đồi bại, nổi bật là sự giả dối. Đám tang của cụ tổ là cuộc hành quân đi xuống mồ chôn của xã hội chó đểu này.

Bài văn mẫu 5

   Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc của thể loại tiểu thuyết trào phúng. Số đỏ như chính là hiện thân của nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ người đọc được cười từ đầu đến cuối, cười một cách hả hê, thoải mái. Nhưng cũng với Số đỏ người đọc phải phẫn uất mà kêu lên: Trời, cái xã hội gì, cái lũ người gì mà giả dối, bịp bợm đến thế, bất nhân bạc ác đến thế.

    Đọc Số đỏ, người ta nghĩ: đây đúng là đất sở trường của Vũ Trọng Phụng, đây thật là ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng tác phẩm này, ngón võ ấy được sử dụng một cách cực kì lợi hại trong một chương, chương XV, có nhan đề là Hạnh phúc của một tang gia.

    Ngón võ ấy là ngón gì? Ấy chính là nghệ thuật tạo mâu thuẫn. Thật ra thì không phải Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn vốn nó tự có trong bản chất xã hội, và nhà văn họ Vũ, với cái nhìn sắc như dao của mình, với cái tài của một nhà trào phúng bẩm sinh, đã nhận ra nó, chỉ nó ra, nâng nó lên cho cả bàn dân thiên hạ nhìn thấy, để cười, để căm ghét và khỉnh bỉ nó.

    Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ Trọng Phụng đã lạnh lùng, đầy mâu thuẫn: Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia mà cũng hạnh phúc à? Tang gia mà cũng có thể hạnh phúc được ư? Cái chết, cái chết của người thân gia đình có thể dem lại cho người ta hạnh phúc được sao? Nếu chỉ đọc nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra, bịa ra một cách ác ý sự kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng không, đó không phải là ác ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của một xã hội mà nhà văn muốn mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mặt.

    Mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của một gia đình đông đảo và đáng kính của một xã hội thượng lưu. Cả gia đình ấy đã nhao lên, nhao lên mỗi người một cách. Nhao lên vì đau khổ, vì đau đớn, vì lo lắng.. trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chúng đã nhao lên vì… hạnh phúc! Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng. Câu văn tưởng chừng ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm cả một thứ thế thái nhân tình.

    Nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật rành rành rết cụ thể này đây: Ông Phán mọc sừng, sau cái chết của ông bố vợ, bỗng thấy cái sự mọc sừng của mình đột nhiên tăng giá lên thêm vài nghìn đồng. Cụ cố Hồng sung sướng mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa kho khạc vừa khóc mếu để được người ta ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế…Còn ông Văn Minh, cháu đích tôn, nhà cải cách xã hội? Ông ta sung sướng tột đỉnh, bởi vì, với cái chết của ông nội, ông ta thấy rằng cái tờ di chúc đã được thực hiện, nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết đi, để chia của, đã trở thành sự thật. Bà Văn Minh sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà ta nhận ra từ cái chết của ông nội chồng một dịp may hiếm có để có thể mặc tang phục tân thời, đồ xô gai tân thời, dernieres créations của tiệm may Âu hóa.

    Tâm địa cái lũ người kia tưởng đến thế đã là tởm. Nhưng chưa hết. Đến đây, Vũ Trọng Phụng còn đầy mâu thuẫn lên một tầng nữa. Bởi bọn con cháu bất hiếu bất mục nhất trần đời đó còn muốn tỏ ra mình là những kẻ có hiếu có thảo cũng nhất trần đời nữa kia. Thế là dưới ngòi bút của nhà văn trào phúng, sự bịp bợm cao nhất, đáng phỉ nhổ nhất cũng bộc lộ ra. Những kẻ mong cho ông già mau chết đã tổ chức một đám ma thật to để bày tỏ lòng hiếu thảo, nghĩa tiếc thương đối với người đã chết! Chính vì thế, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng đã tập trung sức mạnh, như có thần, trong phần thứ hai của chương sách, nghĩa là phần tả cảnh đám ma.

    Trước hết, nhà văn tả cô Tuyết, một cô gái hư hỏng nhưng chỉ hư hỏng một nửa, một thứ thiếu nữ đang rất tiêu biểu trong xã hội tân thời ngày ấy. Tuyết mặc bộ tang phục ngây thơ nửa kín nửa hở, với nét mặt có vẻ buồn lãng mạn (vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người chết) đã gây một hiệu quả lạ lùng: các vị tai to mặt lớn đi đưa đám chỉ nhìn vào vẻ khơi gợi của Tuyết để mà cảm động, cứ như thực sự cảm động trước nỗi buồn tang tóc vậy.

    Đám ma thật to, to đến nước có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng. Người ta đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu khoe sang và khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình! Nếu như mong muốn của tất cả đám con cháu của người chết kia là, trong đám ma này, đưa ra sự giả dối, bịp bợm đồng thời cũng là sự tàn nhẫn, bất nhân, đểu giả của mình lên đến mức hoàn toàn, thì quả thật chúng đã đạt được một cách trọn vẹn xuất sắc.

   Nhưng chưa hết đâu, dưới mắt Vũ Trọng Phụng, cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy đâu. Chúng đông đảo lắm. Chúng là toàn xã hội.

    Bắt đầu là đại diện bộ máy cảnh sát, nghĩa là đại diện của Nhà nước: thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả đã nói đến vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi được nhà chủ đám ma thuê làm người giữ trật tự. Lí do của sự mừng rỡ duy nhất chỉ là vị họ đang không có việc gì để làm, và đang rầu như nhà buôn sắp vỡ nợ. Thứ đến là các vị tai to mặt lớn, Lớp tinh hoa của giới thượng lưu xã hội, mặt mũi long trọng, ngực đeo đầy đủ thứ bội tinh. Trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải vì tưởng nhớ đến người đã khuất, cũng không vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì… được ngắm không mất tiền làn da trắng thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết.

    Sự xuất hiện của hai tên đại bịp trong dịp này lại khiến người ta cảm động đến cực điểm: Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú. Vì sao? Vì với sáu chiếc xe kéo và những vòng hoa đồ sộ, hai kẻ này đã làm cho đám ma thêm long trọng, to tát. Đến bà cụ cố Hồng, có lẽ người lương thiện nhất trong cái gia đinh vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm dộng đến hớt hải lên.

    Nhưng người đi đưa đám thật đông đảo. Bằng điệp khúc Đám cứ đi… được nhắc lại đến mấy lần, tác giả như muốn nói: đám ma thật là to, thật là đông, thiên hạ tha hồ mà chiêm ngưỡng dể thấy rõ sự to tát của nó. Nhưng cứ tìm thử xem trong đám người đông đảo ấy có ai là người đang thực sự đi đưa đám , nghĩa là thực sự có chút tiếc thương đối với người chết mà họ đang đưa tiễn? Không có ai cả. Tất cả mọi ngươi đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ, tuy đang giữ một vẻ nghiêm chính, nhưng đều đang nói một điều gì dó, làm một điều gì đó, nghĩ một điều gi đó không dính dáng đến người chết và đám ma cả. Trai thanh gái lịch thỉ chim nhau, bình phẩm, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau… nhưng tất cả đều bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.

    Thật là nhẫn tâm, thật là vô liêm sỉ. Ta sẽ nghĩ thế. Nhưng với Vũ Trọng Phụng, có nghe được những lời mà bọn họ nói với nhau mới thấy sự vô liêm sỉ ấy còn trơ tráo đến mức nào. Và nhà văn đã đưa ra một số lời ấy.

    Đám cứ đi… nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài.

    Đến lúc đám không cứ đi nữa mà dừng lại để hạ huyệt. Vũ Trọng Phụng còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta., chụp ảnh. Chi tiết thứ hai là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong gia đình này, đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta đã giúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là mgười chồng mọc sừng (chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già đã chết). Thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò dời. Hai chi tiết ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương sách nói về sự giả dối của người đời.

    Những điều Vũ Trọng Phụng viết trong chương sách là chuyện thật ư? Lẽ nào… Những điều ấy toàn là hư cấu ư? Nhưng những điều ấy đều hợp lí lắm mà, và hình như đều có thật cả. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ trên đó nổi lên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự dối trá.

Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*