Dàn ý Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (3 mẫu)

5/5 - (1 bình chọn)

Đề bài: Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia

Dàn ý Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia

I. Mở bài

– Đôi nét về tác giả Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia: Một cây bút hiện thực chủ nghĩa tiêu biểu của văn học nước ta trước Cách mạng tháng 8. Hạnh phúc của một tang gia được trích trong tiểu thuyết hiện thực thành công của ông

– Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã được xây dựng thành công bởi nghệ thuật trào phúng đặc sắc

II. Thân bài

1. Nghệ thuật trào phúng là gì?

– Trào phúng : nghệ thuật gây ra tiếng cười mang ý nghĩa phê phán xã hội.

– Để gây được tiếng cười trào phúng, điều quan trọng nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn và tổ chức truyện làm nổi bật mâu thuẫn đó

2. Nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích

a. Mâu thuẫn trào phúng được xây dựng thành công

– Thể hiện ngay trong tựa đề:

    + “Tang gia”: nhà có đám, đáng ra với hoàn cảnh đó, không khí phải tràn ngập nhiều buồn tiếc

    + “Hạnh phúc”: Cảm xúc khi gặp chuyện nhiều niềm vui, đây là cảm xúc đối lập hẳn với hoàn cảnh “tang gia”

⇒ nhan đề chứa đựng mâu thuẫn trào phúng hàm chứa tiếng cười chua chát, kích thích trí tò mò của người đọc:

– Thể hiện trong niềm vui của những người trong gia đình và ngoài gia đình:

    + Nhà chuyện buồn nhưng mỗi nhân vật trong gia đình đều không giấu nổi niềm vui bởi mình sẽ đạt được mục đích khác nhau

    + Những người ngoài gia đình: Mừng vui vì được khoe mẽ, chim chuột, được xem đám ma to…

– Mâu thuẫn trào phúng xuyên suốt cảnh đám ma: một đám ma rất to, rất đông, được tiến hành rất trọng thể, đúng là một đám ma gương mẫu. Nhưng kỳ thực lại giống một đám hội, đám rước.

b. Nhân vật trào phúng

– Cố Hồng: vui vì được diễn trò già yếu trước mọi người, mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo ⇒ con người háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình

– Ông Văn Minh: thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành chứ không còn trên lý thuyết viễn vông nữa.

– Bà Văn Minh: mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.

– Cô Tuyết: Được dịp mặc y phục “ngây thơ” để chứng tỏ mình hãy còn trinh tiết, cô cũng buồn nhưng là “buồn lãng mạn” vì không thấy người tình của mình

– Cậu Tú Tân: sướng điên người lên vì được dịp sử dụng cái máy ảnh đã lâu không có dịp dùng đến

– Ông Phán: Sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu mình lại có giá trị.

– Xuân tóc đỏ: Hạnh phúc đặc biệt vì nhờ hắn mà cụ Tổ chết, danh giá uy tín lại càng to hơn.

– Cảnh sát Min Đơ và Min Toa:“giữa lúc không có ai đáng bị phạt…đương buồn rầu…thì sung sướng cực điểm”.

– Bạn bè cụ cố Hồng: những kẻ vừa háo danh, vừa háo sắc, họ chia buồn để khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương

– Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chu ý vào những kiểu quần áo tang…

⇒ Bức tranh trào phúng chân thực mang đậm tính hài hước, nhân vật trào phúng thể hiện rõ nét, ai cũng tìm thấy niềm vui trong đám tang đáng lẽ ra nên buồn thương

c. Cảnh tượng trào phúng

– Cảnh đưa đám:

    + Chậm chạp và nhốn nháo

    + Các loại kèn ta, Tây , Tàu lố lăng

    + Người đi đám nói chuyện bàn tán

    + Điệp khúc “Đám cứ đi”

– Cảnh hạ huyệt:

    + Cậu Tú bắt mọi người tạo dáng chụp ảnh

    + Cụ cố Hồng: tỏ ra chí hiếu nhưng lại lộ sự giả dối

    + Phán mọc sừng khóc oặt người đi nhưng lại giúi vào tay Xuân tờ 5 đồng rồi lại khóc oặt người đi

⇒ Càng thể hiện rõ sự “trào phúng” của đoạn trích

III. Kết bài

– Khẳng định nghệ thuật trờ phúng đã được thể hiện thành công trong đoạn trích

– Nghệ thuật trào phúng góp phần phơi bày những hợm hĩnh, lố lăng, bịp bợm của xã hội tượng lưu.

Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – mẫu 1

     Nhắc đến Vũ Trọng Phụng, người ta không chỉ nhớ đến một “ông vua phóng sự đất Bắc” mà còn nhớ đến một cây bút trào phúng độc đáo. Ông còn có tài sở trường xây dựng kiểu nhân vật đám đông. Sự kết hợp tài tình giữa chất trào phúng và sở trường xây dựng nhân vật kiểu đám đông này đã đem đến cho ta một tác phẩm được coi là kiệt tác của văn xuôi Việt Nam trước 1945. Mỗi chương trong tác phẩm là một màn hài kịch và chương XV với tên gọi Hạnh phúc của một tang gia là một màn tiêu biểu.

     Chất trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia tạo bởi sự phát huy hiệu quả của hàng loạt các yếu tố trào phúng: mâu thuẫn trào phúng, những chân dung trào phúng. Những lời văn, giọng điệu trào phúng. Không có chi tiết nào không hướng tới mục đích bóc trần sự lố lăng trong tang gia tràn trề hạnh phúc này.

     Để dàn dựng màn hài kịch, nhà văn trước hết đã phát hiện ra mâu thuẫn trào phúng. Mâu thuẫn trào phúng trong chương truyện này được gợi ra trước hết là cái tên của nó: Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia và hạnh phúc là cặp từ ngữ đối nhau. Nói đến tang gia là nói đến một gia đình vừa có người thân mất. Theo quy luật tâm lí thông thường hẳn tang gia phải bao trùm cái không khí khi đau, sầu thương não nề bởi mỗi khi một ngọn nến đời tắt đi là để lại bao đau thương cho người sống. Vậy mà trong tang gia của một gia đình được xem là danh giá nhất Hà thành, trước cái chết của một người ông, người cha (cụ tổ) chẳng đứa con nào của cụ sầu não, tiếc thương cả. Trái lại, cái chết ấy như đã đem đến một nguồn hạnh phúc to lớn không nén nổi cứ tuôn ra, trào ra.

     Tang gia và hạnh phúc. Đó là chuyện lạ đời nhưng lại có thật. Vì sao cái chết của cụ tổ lại là hạnh phúc của cái tang gia đại bất hiếu này? Ấy là vì cụ tổ có một gia tài kếch xù. Bao ngày lũ con cháu hau háu trông đợi phần mình, cụ cố Hồng chưa có dịp tỏ ra sự rộng rãi và biết điều của mình đối với bầy con trai con gái, dâu, rể…. Họ từng muốn giết cụ bằng bài thuốc Thánh nhưng cụ vẫn chưa chịu chết. Bây giờ mơ ước trở thành sự thực lẽ nào họ không vui. Đúng như Vũ Trọng Phụng nhận xét: Tang gia ấy ai ai cũng vui vẻ cả hoặc cái chết làm cho nhiều người sung sướng lắm.

     Mâu thuẫn trào phúng không chỉ thể hiện ở tâm trạng mong cụ tổ chóng chết hay ở không khí chuẩn bị tang lễ mà còn thể hiện rõ nét ở hình thức tổ chức : đám tang. Có thể nói âm điệu bi thương lẽ ra phải có ở một đám tang đã bị thay thế bằng âm điệu náo nức phấn khởi. Nhà văn đã nêu lên một giả định có ý châm biếm chua chát: Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Quả là ở thời buổi nhố nhăng này người ta đã quen sống trong sự lừa dối, rất thích lừa dối và thật sự hài lòng khi bị lừa dối.

     Trong màn hài kịch này còn có một chi tiết đặc sắc của tô đậm mâu thuẫn: trào phúng đã nói. Đó là khi cụ tổ chết, người ta quan tâm việc mai táng cái xác chết ấy thì ít mà lo lắng bàn bạc việc chôn cái xác sống của cô Tuyết cùng cái tiếng hư hỏng của cô thì nhiều. Đám tang bị trì hoãn là vì thế. Người ta còn bận thu xếp cho êm ả chuyện cô tiểu thư bị hư hỏng, còn bận bịu tiếng xấu xa có thể làm tổn hại đến danh giá tang gia.

     Trong khi quan tâm tô đậm mâu thuẫn trào phúng, Vũ Trọng Phụng còn đồng thời vẽ lên nhiều bức chân dung trào phúng đặc sắc.

     Trước hết là cụ cố Hồng với câu nói cửa miệng: Biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Xưa nay cụ chỉ mới chỉ được diễn trò già yếu ở nhà, giờ cụ được ra mắt trước đám đông: Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt lại mơ màng đến lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: úi giời ơi, con trai lớn đã già đến thế kia kìa.

     Tuyết thì sung sướng được mặc bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan với cái tráp trầu cau và thuốc lá mời khách, trên mặt lại hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt.

     Còn ông Phán mọc sừng chân dung ông hiện lên cũng không kém phần nực cười. Ông là kẻ vớ bở nhờ cái chết của cụ Tổ. Có vẻ như nhờ thế mà ông bộc lộ niềm đau xót của mình một cách ồn ào hơn ai hết: Ông oặt người đi và khóc Hứt!….hứt… Nhưng mỉa mai thay khi ông Phán dúi vào tay Xuân tờ bạc năm đồng. Màn kịch của ông Phán đã bị lột trần.

     Đây cũng là dịp may hiếm có để tiệm may Âu hóa và ông Typn lăng xê những mốt thời trang, ban cho những ai có tang đương đau đớn những mốt mới tiệm ông, bởi thế đó cũng được coi là vì kẻ chết chút ít hạnh phúc ở đời.

     Cậu Tú Tân thì mừng quá, bởi cậu đang điên người lên vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mãi mà không được dùng đến.

     Còn Xuân Tóc Đỏ càng vênh váo vì nhờ hắn mà cụ Tổ lăn đùng ra chết.

     Hạnh phúc lan tràn cả ra ngoài gia đình, người chết làm bao người khác được thơm lây: Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang thất nghiệp bỗng được thuê giữ trật tự…. Bạn bè cụ cố Hồng có điều kiện khoe khoang sự oai vệ của mình…

     Một trong những nét đặc sắc của ngòi bút trào phúng Vũ Trọng Phụng là sự thể hiện nhân vật đám đông. Tác giả lùi ống kính thật xa quay toàn cảnh đám tang với điệp khúc đám cứ đi… Có khi tác giả lại quay cận cảnh để vạch trần bản chất nhố nhăng giả tạo của đám tang này. Vũ Trọng Phụng đã thể hiện ngôn ngữ trào phúng khi miêu tả một số kiểu râu ria của các cụ: Có cụ râu lún phún rầm rậm, có vị râu hung hung, lại có vị râu loăn xoăn… Các cụ ấy đã thực sự cảm động vì làn da trắng nơi ngực và cánh tay cô Tuyết. Đến đưa ma cụ tổ phần đông là trai thanh gái lịch đất Hà thành ngàn năm văn hiến, đến với đám tang cốt để chim nhau, hò hẹn nhau…. nói với nhau đủ chuyện hàng ngày, từ chuyện mình đến chuyện người, nào là “con bé nhà ai kháu thế… cái thằng bạc tình bỏ mẹ… gớm cái ngực đầm quá đi mất”… Bởi vậy đám ma đông là thế, ồn ào náo nhiệt là thế.

     Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng còn hiện ra ở giọng điệu trong chương truyện. Nhà văn sử dụng giọng kể dửng dưng, giễu cợt, thậm chí bằng những lời ác khẩu. Luôn luôn có sự khập khiễng giữa sự vật được nói tới giọng điệu câu văn: Ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bình tĩnh. Bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột chôn cho chóng cái xác chết cụ tổ. Điệp khúc : cứ đi tiếng khóc cũng nhại lại đầy sự châm biếm: Hứt!… Hứt!… Hứt!.

     Tất cả những thành công đó chỉ có được ở một cây bút trào phúng bậc thầy. Qua những trang văn của Vũ Trọng Phụng cả một xã hội nhố nhăng thị thành hiện lên chân thực sinh động. Nhà văn đã bóc trần bản chất xấu xa, thói lừa bịp rởm đời chạy theo lối sống đua đòi Tây hoá của hàng loạt người. Ngòi bút châm biếm của Vũ Trọng Phụng có sức mạnh ghê gớm bắt nguồn từ chính sự phẫn uất của ông trước xã hội thực dân phong kiến – xã hội mà ông gọi là chó đểu

     Qua việc miêu tả người, dựng cảnh, sử dụng các chi tiết nghệ thuật biếm họa, chân dung, ngôn ngữ hài hước, nét đặc biệt của cây bút trào phúng bậc thầy thể hiện rõ. Nó như một làn roi quất mạnh vào xã hội thượng lưu tiểu tư sản thành thị hết sức lố lăng, đồi bại, nổi bật là sự giả dối. Đám tang của cụ cổ là cuộc hành quân đi xuống mồ của xã hội chó đểu này. Đồng thời lại tôn vinh một cây bút trào phúng bậc thầy của văn học Việt Nam trước năm 1945 – Vũ Trọng Phụng.

Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – mẫu 2

     Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất của thể loại trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ, người đọc được cười từ đầu đến cuối, cười một cách hả hê. Nhưng cũng với Số đỏ người đọc phải phẫn uất mà kêu lên: Trời! Cái xã hội gì mà giả dối, bịp bợm đến thế, bất nhân, bạc ác đến thế!

     Đọc Số đỏ, người ta nghĩ, đây đúng là đất cho ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng. Trong tác phẩm này, ngón võ ấy đã được sử dụng hết sức lợi hại trong một chương, chương XV, có nhan đề là “Hạnh phúc của một tang gia”. Ngón võ ấy là ngón gì, ấy chính là nghệ thuật tạo mâu thuẫn. Thật ra không phải Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn vốn tự có trong bản chất xã hội, và nhà văn họ Vũ với cái nhìn sắc như dao của mình, với cái tài của một “ông vua phóng sự” bẩm sinh đã nhận ra nó, chỉ nó ra, nâng nó lên cho cả toàn dân thiên hạ thấy để cười, để căm ghét và khinh bỉ nó.

     Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ Trọng Phụng đã lạ lùng, đầy mâu thuẫn: Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia mà cũng hạnh phúc à? Tang gia mà cũng có thể hạnh phúc được ư? Cái chết của người thân gia đình có thể đem lại cho người ta hạnh phúc được sao? Nếu chỉ đọc nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra một cách ác ý bằng sự kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng không, đó không phải là ác ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của xã hội mà nhà văn muốn mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mắt.

     Mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của “một gia đình đông đảo và đáng kính” của một xã hội “thượng lưu”. Cả cái gia đình ấy đã “nhao lên mỗi người một cách”. Nhưng nhao lên vì đau khổ, vì đau đớn, vì lo lắng… trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chúng đã nhao lên vì…. hạnh phúc! “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sướng lắm”: Câu văn tưởng chừng như ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm tất cả mọi thứ “thế thái nhân tình”.

     Nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật rất rành rành cụ thể. Ông Phán mọc sừng sau cái chết của ông nội vợ, bỗng thấy cái “sự mọc sừng” của mình tăng giá lên vài nghìn đồng. Cụ cố Hồng sung sướng “mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy vừa ho khạc, vừa khóc mếu” để được người ta ngợi khen “một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,…”. Còn ông Văn Minh, cháu đích tôn, nhà cải cách xã hội? Ông ta sung sướng tột đỉnh bởi vì với cái chết của ông nội, ông ta thấy rằng tờ di chúc đã được thực hiện, nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết đi để được chia của đã trở thành sự thật. Bà Văn Minh sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà ta nhận ra từ cái chết của ông nội chồng một dịp may hiếm có để có thể mặc “trang phục tân thời”, “đồ xô gai tân thời”, “những sáng tạo mốt mới” của tiệm may Âu hoá!

     Tâm địa của lũ người kia tưởng đến thế là tởm và lố bịch. Nhưng chưa hết, đến đây, Vũ Trọng Phụng còn đẩy lên một tầng nữa. Bởi bọn con cháu bất hiếu nhất trần đời đó còn muốn tỏ ra mình là kẻ có hiếu, có thảo cũng nhất trần đời nữa kia. Thế là dưới ngòi bút của nhà văn trào phúng, sự bịp bợm cao nhất, đáng phỉ nhổ nhất cũng bộc lộ ra. Những kẻ mong cho ông già mau chết đã tổ chức một đám ma thật to để bày tỏ lòng hiếu thảo, tiếc thương đối với người đã chết! Chính vì thế ngòi bút của Vũ Trọng Phụng tập trung sức mạnh như có thần trong phần thứ hai của chương sách – phần tả cảnh đám ma.

     Trước hết nhà văn tả cô Tuyết, một cô gái hư hỏng nhưng chỉ “hư hỏng một nửa”, một thiếu nữ đang rất tiêu biểu cho xã hội “tân thời ngày ấy”. Tuyết mặc bộ trang phục nửa kín nửa hở, với nét mặt đó, “vẻ buồn lãng mạn” vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người chết, đã gây một hiệu quả lạ lùng. Các vị tai to mặt lớn đi đưa đám chỉ nhìn vào vẻ khêu gợi của Tuyết để mà cảm động, cứ như thực sự cảm động trước nỗi buồn tang tóc vậy.

     Đám ma to thật, to đến mức “có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng”. Người ta đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu, khoe sang và để khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình.

     Nếu như mong muốn của tất cả đám con của người chết kia là trong đám ma này đưa sự giả dối, bịp bợm đồng thời là sự tàn nhẫn bất nhân, đểu giả của mình lên đến mức hoàn toàn thì quả thực chúng đã đạt được một cách trọn vẹn, xuất sắc.

     Nhưng chưa hết. Dưới mắt Vũ Trọng Phụng, cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy. Chúng đông đảo lắm. Chúng là toàn xã hội văn minh Âu hóa. Bắt đầu là hai nhà đại diện cảnh sát, nghĩa là đại diện của nhà nước, thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả đã nói lên vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi được chủ nhà đám ma thuê làm người giữ trật tự. Lí do của sự mừng rỡ, duy nhất chỉ là vì họ đang không có việc gì để làm và đang “buồn như nhà buôn sắp vỡ nợ”. Thứ đến là các vị tai to mặt lớn, lớp’ “hoa” của giới thượng lưu xã hội, mặt mũi sang trọng; người đeo đầy đủ các thứ “hội rinh”. Trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải là đã nhớ đến người đã khuất, cũng không phải vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì… được ngắm không mất tiền làn da trắng thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết.

     Sự xuất hiện của hai tên đại bịp là Xuân Tóc Đỏ và sư ông Tăng Phú trong dịp này lại khiến người ta cảm động đến cực điểm. Vì sao? Vì với sáu chiếc xe kéo và những vòng hoa đồ sộ hai kẻ này đã làm cho đám ma thêm long trọng, to tát. Đến bà cụ cố Hồng, có lẽ là người lương thiện nhất trong cái gia đình vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm động đến hớt hải lên.

     Những người đi đưa đám thật đông đảo. Bằng điệp khúc “Đám cứ đi…” được nhắc lại đến mấy lần, tác giả như muốn nói, đám ma thật là to, thật là đông, thiên hạ tha hồ mà chiêm ngưỡng để thấy rõ sự to tát của nó. Nhưng cứ thử tìm xem trong đám người đông đảo ấy có ai là người đang thực sự “đi đưa đám”, nghĩa là có chút tiếc thương đối với người chết mà họ đang đưa tiễn? Không có ai cả, tất cả mọi người, đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ, tuy đang giữ một vẻ nghiêm chỉnh, nhưng đều đang nói một điều gì đó, nghĩ một điều gì đó không dính dáng đến người chết và đám ma cả. Trai thanh gái lịch thì chim nhau, bình phẩm, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau… nhưng tất cả đều “mang vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma”.

     Thật là nhẫn tâm, thật là vô liêm sỉ. Ta sẽ nghĩ như thế. Nhưng, với Vũ Trọng Phụng có nghe được những lời mà họ nói với nhau mới thấy sự vô liêm sỉ còn trơ tráo đến mức nào mà nhà văn đã đưa ra một số lời ấy.

     “Đám cứ đi…” có nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài.

     Đến lúc đám tang không “cứ đi” nữa mà dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất là cảnh câu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta… chụp ảnh. Chi tiết thứ hai là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong cái gia đình này đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta đã giúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là “người chồng mọc sừng” (chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già chết). Thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Hai chi tiết ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương nói về sự giả dối của con người.

     Những điều Vũ Trọng Phụng viết trong trang sách là thật ư? Nhưng những điều ấy vô lí lắm mà và hình như đều có thật cả. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, những cảnh trào phúng cười ra nước mắt, sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ mà trên nó nổi lên hai điều lớn nhất: Sự tàn nhẫn và sự dối trá.

Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – mẫu 3

     Vũ Trọng Phụng một trong những cây bút trào phúng bậc thầy của Văn học Việt Nam. Trong các sáng tác của ông nổi bật nổi bật nhất là Số đỏ – tác phẩm có thể đem lại vinh dự cho bất cứ nền văn học nào. Đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia” tuy chỉ là trích đoạn ngắn ngủi nhưng cũng đã làm nổi bật tài năng trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng.

     Trào phúng là khái niệm để nói việc sử dụng những lời lẽ bóng bẩy, hào nhoáng để chế nhạo những sự vật, hiện tượng, con người đáng cười trong cuộc sống. Tiếng cười được tạo ra khi ta phát hiện ra cái đáng cười, phát hiện mâu thuẫn trào phúng. Trào phúng không chỉ mới xuất hiện trong văn học hiện đại mà trước đó đã có những nhà thơ với các sáng tác đậm tính trào phúng, tự trào như Tú Xương. Vũ Trọng Phụng đã kế thừa và phát huy nghệ thuật trào phúng lên một đỉnh cao mới. Trong đoạn trích này, nghệ thuật trào phúng được thể hiện ở những mâu thuẫn, sự kệch cỡm của những đứa con, đứa cháu trước cái chết của người thân trong gia đình. Cùng với giọng điệu lạnh lùng đã cho thấy ngòi bút châm biếm sắc sảo, vạch trần bộ mặt “chó đểu” của xã hội đương thời.

     Tính trào phúng được thể hiện trước hết ở nhan đề của đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia”. Nhắc tới đám tang là nhắc đến kẻ ở người đi, là sự biệt li mãi mãi, thường đem đến sự xót thương, đau đớn đến tột cùng. Nhưng ở đám tang này lại khác hẳn, người ta hạnh phúc, sung sướng khi được thỏa mãn ước nguyện. Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã thể hiện mâu thuẫn, nghịch lý, đây đồng thời cũng là mâu thuẫn được triển khai trong toàn bài, để làm nổi bật chủ đề tác phẩm, và thái độ phê phán sâu sắc của tác giả với xã hội.

     Để làm tính chất trào phúng được bộc lộ rõ nét hơn, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng soi chiếu vào từng chân dung, để thấy được bản chất xấu xa của mỗi người. Hòa với niềm vui chung, khi cụ cố tổ chết đi, bản di chúc vốn lâu nay chỉ được nằm trên giấy thì đến đây đã được đi vào thực hành, mỗi người sẽ được chia những gia sản kếch xù. Ai ai cũng như mở cờ trong bụng. Nhưng bên cạnh niềm vui chung đó, mỗi người lại có những niềm vui riêng cho bản thân. Cụ cố Hồng hạnh phúc, sung sướng khi tưởng tượng đến cảnh mình được mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, và để người ta khen: “úi kìa, con giai nhớn đã già thế kia à”.

     Tuy mới ngoài năm mươi tuổi nhưng lúc nào ông Hồng cũng muốn được người ta gọi là cụ. Ông bà Văn Minh thì sung sướng, đây chính là cơ may hiếm có để vợ chồng ông bà tung bộ sưu tập mới, lăng xê những mẫu quần áo âu hóa mới nhất đến với mọi người. Riêng ông Văn Minh được Vũ Trọng Phụng lia máy quay đến cận cảnh, ghi lại khoảnh khắc vò đầu bứt tóc, vô cùng đăm chiêu vì không biết xử lí với Xuân Tóc Đỏ ra sao. Còn người đàn ông chuyên đào mỏ, mang cái sừng to trên đầu lại sung sướng, thỏa mãn khi biết cái sừng trên đầu lại đem đến cho mình những món hời lớn đến như vậy, chính ông ta cũng không ngờ giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế . Cô Tuyết với bộ mặt buồn rầu, rất đúng mốt của nhà có đám, mặc bộ quần áo ngây thơ, hững hờ, nửa kín nửa hở khiến các bạn của cụ cố Hồng không thể rời mắt.

     Bộ mặt buồn rầu đó không phải dành cho người đã chết mà là đang trông ngóng người tình – Xuân Tóc Đỏ mãi vẫn chưa xuất hiện. Đối với cậu Tú Tân, niềm vui của cậu là được mang chiếc máy ảnh đã có từ lâu đem vào sử dụng, cậu đã ao ước đến ngày này rất lâu rồi. Không chỉ người trong nhà vui mà những kẻ bên ngoài cũng hết sức sung sướng. Min Đơ Min Toa đang thất nghiệp, bỗng nhận được lời thuê trống đám tang thì vui sướng khôn xiết; đây cũng là cơ hội để bạn bè cụ cố Hồng khoe khoang những huân chương dính đầy trên ngực.

     Không dừng lại ở đó, tính chất trào phúng còn được thể hiện đậm nét trong cảnh đám rước tang đông vui, ồn ào như một đám hội, một buổi diễu hành. Đám tang họ cố làm cho thật to, thật hoành tráng để xứng đáng với chữ “hiếu” mà họ muốn bày tỏ với người đã khuất. Đám tang đi đến đâu làm huyên náo đến đó, ai cũng phải trầm trồ về một đám tang tầm cỡ. Kèn tây, kèn ta, kèn tàu, rồi cả lốc bốc xoảng hòa vào nhau tạo nên sự pha tạp, hỗn độn. Giữa lúc đám đang đi thì xuất hiện thêm chiếc xe “trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai lọng” đi cùng với đó là “hai vòng hoa đồ sộ, một của báo Gõ mõ, một của Xuân”. Khi lia góc máy đến cận cảnh người ta còn hết sức hoảng hốt về những câu chuyện trong đám tang ấy, với gương mặt buồn bã chuẩn mực của đám tang, họ chim chuột nhau, nói xấu người này, kể chuyện người kia, “đám cứ đi” kéo dài theo đó là sự suy đồi, bại hoại về nhân cách và đạo đức. Cả đám tang đó là hội tụ của những nhân cách bị tha hóa, của thói đạo đức giả đang lên ngôi trong xã hội lúc bấy giờ.

     Cảnh hạ huyệt cũng là là một trong những cảnh trào phúng đặc sắc không kém. Cậu Tú Tân ra bắt bẻ từng người, đứng kiểu này, đứng dáng nọ sao cho đau khổ nhất để cậu chụp được những bức ảnh hoàn hảo. Nhưng có lẽ đỉnh cao của ngòi bút trào phúng chính là khi Vũ Trọng Phụng tinh mắt nhận ra cuộc mua bán, trao đổi quá đỗi nhanh chóng của ông Phán mọc sừng và Xuân Tóc Đỏ. Tờ tiền gấp làm tư, trong lúc khóc oặt cả người đi, ông Phán Mọc Sừng đã nhanh nhẹn đặt vào tay Xuân, như một lẽ tự nhiên Xuân cất ngay đi để người ta khỏi trông thấy. Quả là sự phối hợp hết sức hài hòa, nhịp nhàng của những diễn viên lão làng.

     Để hoàn thiện bức tranh trào phúng ta cũng không thể không nhắc đến ngôn ngữ trào phúng bậc thầy được tác giả sử dụng trong tác phẩm. Ngôn từ được sử dụng tinh tế, có chọn lọc, đúng bản chất sự vật. Đầu tiên là về tên nhân vật: Tuyết ngây thơ, Phán mọc sừng, ông bà Văn Minh, Xuân Tóc Đỏ,… Sử dụng linh hoạt các hình ảnh so sánh hài hước: Cảnh sát không được biên phạt buồn như nhà buôn vỡ nợ; Từ chối việc chạy chữa như những vị danh y biết tự trọng… đã vạch trần bộ mặt đểu giả, bất nhân của xã hội bây giờ. Giọng văn đậm chất châm biếm: Thật là một đám ma to tát ; Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm… Sự kết hợp linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật cùng với tình huống trào phúng đặc sắc, Vũ Trọng Phụng đã vẽ nên một bức tranh vô cùng chân thực về xã hội âu hóa rởm đời, khi mà càng âu hóa con người càng bị mài mòn về nhân tính, càng trở nên giả dối, đểu cáng hơn.

     Bằng bút pháp trào phúng đặc sắc, đầy sâu cay, Vũ Trọng Phụng đã thành công khi vạch trần bộ mặt bất nhân của xã hội đương thời. Tiếng cười hài hước, hóm hỉnh lại vô cùng sắc sảo cho thấy sự khinh bỉ đến tột cùng của ông với xã hội âu hóa lố lăng, kệch cỡm của tầng lớp thị dân đương thời.

Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học (dàn ý + 50 mẫu)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*