Văn hóa Ý

5/5 - (1 bình chọn)

Nét văn hóa và phong tục của người Ý

Văn hóa lâu đời của Italia được thể hiện qua những danh lam thắng cảnh, những di tích cổ như đấu trường Coloseum, Vatican, giáo đường Doumo, đài phun nước Trevi,… và nhiều nơi khác. Bên cạnh đó khi đi du lịch Ý chúng ta sẽ được tìm hiểu một nền văn hóa với chiều dài lịch sử lâu đời có một không hai. Một khi đã đặt chân đến với nơi này, bạn không chỉ choáng ngợp với những điểm du lịch nổi tiếng ở Ý mà còn mê mẩn với nền văn hóa và phong tục đặc sắc của đất nước này.

Trang phục tinh tế

Hãy tinh tế trong việc lựa chọn trang phục, sao cho vừa đẹp vừa có phong cách. Các màu thường được sử dụng trong ăn mặc là màu sẫm, nâu nhạt. Các màu sáng hơn thường được dùng cho các đồ cá nhân. Quần bò và giày thể thao trên đường là đồ thư giãn có thể chấp nhận được, và được thanh niên ưa chuông. Tuy nhiên, cách ăn mặc này sẽ không được chấp nhận trong các bối cảnh cần sự nghiêm túc

Rộn ràng những lễ hội

Italia là đất nước có vẻ đẹp rạng rỡ, và luôn yêu lễ hội. Người Italia ăn mừng Giáng sinh và năm mới bằng cách trang hoàng tráng lệ. Hàng năm có hàng trăm lễ hội được tổ chức ở gần như tất cả các thị trấn ở Italia. Lễ kỷ niệm, lễ hội, và những bữa tiệc bên đường phố là một phần trong cuộc sống của người Italia. Các bạn có thể khám phá ẩm thực, nếm rượu, nhạc Jazz, bóng đá, tất cả đều là những phần không thể thiếu.

Đừng quá cứng nhắc về giờ giấc 

Ngày làm việc – giờ hành chính – giờ học của Italia là từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Tuy nhiên các cuộc hẹn vui chơi hay kể cả giờ gặp mặt các đối tác cũng thường rất linh hoạt, thuận tiện cho tất cả mọi người. Vì thế người Ý thường bị coi là luôn đến muộn. Thêm nữa, nếu một người Ý đến đón ta ăn bữa sáng thì cũng không nên bàn chuyện học tập, công việc ngay buổi sáng hoặc trong bữa sáng. Bữa trưa thì thường bắt đầu từ 1 giờ chiều. Thậm chí mọi chuyện có thể được bàn bạc ngay trong bữa trưa đó, kéo dài ít nhất 2 tiếng đồng hồ. Giờ ăn tối của người Ý thường bắt đầu từ 8 giờ tối, khá muộn so với thường lệ. 

Gắn kết gia đình

Người Ý coi trọng cuộc sống gia đình

Nếu ai đã từng xem bộ phim Godfather (Bố già) nói về một gia đình Italia thuần khiết, chúng ta sẽ đều nhận ra một nét đặc trưng trong văn hóa của người Italia, đó chính là mối ràng buộc chặt chẽ với gia đình và nơi gia đình họ sinh sống. Không giống như các nước phương Tây khác, thị trường bất động sản ở Ý không diễn ra sôi động vì mọi người đều tìm cách gìn giữ gia sản gia đình. Đối với họ, việc bán một ngôi nhà không chỉ đơn thuần là một cuộc giao dịch mà là sự chia tay kỷ niệm của nhiều thế hệ.

“Gia đình là một giá trị rất quan trọng đối với nền văn hóa Ý” theo Talia Wagner, một nhà tâm lý hôn nhân và gia đình nói với tờ Live Science. Tinh thần đoàn kết của gia đình tập trung vào tất cả thành viên trong gia đình hơn là những gia đình hạt nhân như ở phương đông, chỉ tập trung vào mẹ hoặc bố hoặc những đứa con, Wagner chia sẻ. Người Ý thường tụ họp và dành thời gian cho gia đình. “Trẻ em được nuôi dưỡng để duy trì sự gần gũi với gia đình khi trưởng thành và kết hợp gia đình tương lai của chúng vào mạng lưới xã hội” theo Wagner.

“Chạm” má – Nét giao tiếp đặc sắc tại Ý

Văn hóa đặc trưng Ý trong giao tiếp thể hiện nồng nhiệt. Nhận một cái ôm lịch sự và hôn nhẹ vào má (không phân biệt nam nữ) thì bạn nên lấy làm mừng bởi họ đã tỏ ra thân thiện. Phong tục các nước Châu Á thường không quen có cử chỉ thân mật như vậy. Bởi thế nếu chúng ta có thái độ phòng thủ thì dễ bị coi là không thân thiện hoặc kiêu ngạo. Tuy nhiên chúng ta không nên chủ động ôm hôn người Ý trước mà chỉ nên sẵn sàng đáp lại cử chỉ này.

Văn hóa ẩm thực

Bữa ăn ấm cúng của gia đình người Italia

Đặc sản của người Ý rất nổi tiếng và được ngưỡng mộ trên khắp thế giới. Ai mà không thích pizza hay pasta chứ? Đối với người Ý, thực phẩm là nghệ thuật, họ làm chủ rất tốt cách tập hợp những điều tuyệt vời nhất vào món ăn. Tại trung tâm nước Ý Spaghetti (Mỳ ống Ý) và pizza rất phổ biến. Tuy nhiên ở phía Bắc những món ăn phổ biến bao gồm cá, khoai tây, gạo, xúc xích, thịt heo, mỳ, cơm polenta và risotto. Ở phía Nam cà chua là lương thực chính, dùng để ăn sống và nấu nước sốt với bach hoa, tiêu, trái oliu và dầu oliu, tỏi, atiso, cà tím và pho mát ricotta. Ẩm thực là sợi dây duy trì mối quan hệ giữa gia đình và bạn bè, và còn có nhiều món ăn đặc biệt trong mỗi dịp đặc biệt nữa.

Cách ăn uống của người Italia

Bạn đừng hy vọng được dùng bữa trưa chỉ bằng 1 cái đĩa (dù vẫn có nhà hàng phục vụ bữa ăn bằng 1 cái đĩa). Bữa ăn truyền thống của Italia thường có ít nhất là 3 món. Điều này có thể gây chút khó khăn cho người nước ngoài.

Theo văn hóa Italy, thực đơn bao gồm các món khai vị gọi là antipasti – ví dụ như một lát xúc xích Italia hay rau trộn giấm. Các thức ăn tinh bột gọi là primi piatti (tương tự món gnocchi), cơm Italia hay mì ống. Món ăn chính gọi là secondi piatti, có hoặc không có contorno (một đĩa rau). Các món tráng miệng gọi là dolce – như: tiramisu, panna cotta, gelato và đồ uống gồm: từ nước có ga đến cà phê espresso. Điều kỳ lạ là người ta ăn mì ống trước mà không ăn thịt và món ăn kèm vì các món primi piatti và secondi piatti không ăn với nhau được.

Người Italia không ăn trứng, giăm bông, thịt lợn muối vào bữa sáng – là một điểm khác biệt đối với khách du lịch. Bữa sáng của người Italia chỉ ăn “prima colazione” hoặc “colazione”, gồm các loại đồ uống nóng như: caffè latte, cà phê sữa, trà đen với bánh mì, bánh nướng, bánh mì ngọt hình tròn, bánh sừng bò, biscotti hoặc bánh ngọt.

Các món Colaziones thường được phục vụ trong các quán bar, khác với các quán bar của Mỹ, phục vụ cà phê và bánh nướng cho người ăn nhanh trước khi đi học, đi làm. Nếu bạn đến Italia, muốn ăn mặn vào bữa sáng thì tốt nhất nên ăn trong khách sạn. 

Giao tiếp bằng tay

Người Italia sẽ không còn là người Italia nữa nếu như không có cử chỉ giao tiếp bằng tay, đây là một cách giao tiếp văn hóa Italy rất thú vị. Du khách thích thú khi thấy người dân bản địa nói chuyện với nhau trên quảng trường công cộng, biểu cảm bằng tay khua khoắng.

Ngôn ngữ cử chỉ của người Italia do người Hy Lạp mang đến miền nam Italia từ xa xưa khi chiếm đóng Naples. Khi đó người Italia đã dùng cử chỉ để giao tiếp vì không nghe hiểu được người Hy Lạp, và từ đó nó trở thành cách giao tiếp truyền thống ngấm vào máu người Italia. Bạn hãy thử dùng động tác tay và nụ hôn giao tiếp với người dân bản địa nơi đây khi ngôn ngữ bất đồng nhé.

Khó lái xe trên đường

Lái xe trên đường phố dường như là khó khăn đối với du khách

Ở Italia, bạn nên suy nghĩ kỹ trước khi thuê ô tô và phải chắc chắn rằng bạn lái được xe với kỹ năng điên rồ của cánh lái xe Italia. Họ có thể tiến sát vào xe bạn, tạt đầu xe bạn, có lúc không để ý đến đèn tín hiệu giao thông. Những chuyện như thế ở Italia là rất bình thường. Trong các cuộc khảo sát ở châu Âu, lái xe Italia luôn bị xếp là dở nhất. Nếu bạn định lái xe thì hãy ghi nhớ câu nói của người Italia rằng: “hãy nhìn phía trước, để người khác nhìn phía sau” vì đó là cách họ đối đãi trên đường.

Cửa hàng đóng cửa buổi chiều

Bạn định đi mua sắm gì đó vào 2 giờ chiều mà cửa hàng thông báo đóng cửa. Cửa hàng khác cũng vậy. bạn sẽ nghĩ có thể do cửa hàng nghỉ trưa. Ở Italia, các cửa hàng thường nghỉ trưa như thế (nhất là vùng nông thôn). Họ đóng cửa hàng từ 12h30 trưa đến 3h30 chiều. 

Theo văn hóa Italy, trong thời gian nghỉ trưa kéo dài vài giờ, nhân viên cửa hàng về nhà, nấu ăn, ăn uống, nghỉ ngơi rồi lại đi làm. Trong các thành phố nhộn nhịp, không ai bận tâm đến về nhà nấu ăn. Các nhà hàng thường có thực đơn bữa trưa.

Sống chậm ở Italy

Người nước ngoài, nhất là người đến từ các thành phố đông đúc trên thế giới sẽ thấy cuộc sống ở Italia chậm chạp. Sống chậm cũng là một cách sống khá đặc biệt trong văn hóa Italy. Bữa cơm tối có thể kéo dài đến 3 giờ. Đi ăn bên ngoài là điều hiếm thấy, trừ khi bạn ở trong thành phố du lịch.

Bạn nên nhớ đừng làm hỏng cuộc gặp gỡ, hãy chấp nhận người Italia thường trễ hẹn. Người Italia sống thong dong với hiện tại!

Uống cà phê – nét đặc biệt trong văn hóa Italy

Văn hóa cafe Italy cũng khá đặc biệt

Khi ở Italia, bạn hãy tạm quên đi thương hiệu Starbucks và hãy uống cà phê trong quán bar. Bạn đừng nhầm lẫn những quán bar Italia này với quán bar phục vụ cocktail pha rượu. Bạn hãy vào bar tìm nơi đăng ký, trả tiền, xếp hàng và đặt mua cà phê.

Bạn sẽ thấy mọi người đều đứng uống cà phê. Còn bạn lấy cà phê mang đến bàn ngồi nhấm nháp mặc cho thời gian trôi. Cả hai cách uống cà phê đều rất tuyệt, chỉ có điều nếu bạn muốn ngồi bàn thì phải trả thêm tiền. Có nhiều điều trong văn hóa cà phê Italia mà bạn nên ghi nhớ như: không được dùng từ Espresso mà dùng từ “un caffè” để gọi, không gọi cappuccino vào sau 11 giờ trưa, gọi latte nghĩa là bạn muốn một ly sữa nhạt.

Âm nhạc, mỹ thuật, văn học và văn hóa Ý Mỹ thuật

Ý có thể được nhìn thấy tại mọi ngóc ngách của đất nước Ý, không chỉ là những bảo tàng tại Florence, Venice và Rome, mà còn là những nhà thờ và công trình công cộng. Và nổi tiếng nhất là những miếng ghép trên trần nhà của nhà nguyện Sistine của Vatican, cái mà được sơn bởi Michelangelo vào giữa năm 1508 và 1512. Ý cũng là nơi sinh của những nhà họa sĩ tài ba như Leon Battista Alberti và Leonardo da Vinci. Nói đến âm nhạc nước Ý, thì nổi tiếng nhất vẫn là văn hóa âm nhạc Opera. Rất nhiều người chơi nhạc và nhà soạn nhạc vĩ đại như Giuseppe Verdi, Ruggero Leoncavallo và Luciano Pavarotti đều là người Ý. Văn học Ý có rất nhiều công trình vĩ đại nhu Dante’s La Divince Comida, cái mà được viết vào thế kỷ thứ 13 và tác phẩm Pietro Bembo, Nicolo Machiavelli và Ludovico Ariosto được viết vào thế kỷ 16. Tác phẩm Hoàng tử Machiavelli được xem như là tác phẩm đầu tiên về khoa học chính trị. Nền công nghiệp thời trang tại Ý, là ngôi nhà của hàng trăn nhãn hàng nổi tiếng gồm Armani, Gucci, Benetton, Versace và Prada.

Tôn giáo

Khoảng 90% người Ý theo đạo Công giáo La Mã. Rome là quê hương của thành phố Vatican, là trung tâm của công giáo La Mã và là nơi ở của giáo hoàng. 10% còn lại là Tin lành, Do thái hoặc Hồi giáo.

Những lễ kỷ niệm

Người Ý có cuộc sống rất hạnh phúc và họ thích những ngày lễ, vì vậy có rất nhiều ngày lễ quốc gia. Thật quan trọng khi kiểm tra lại tất cả những ngày lễ quốc gia tại Ý nếu bạn có dự định du lịch đến đây vì những bảo tàng, cửa hàng và nhà hàng đều sẽ đóng cửa trong những ngày này, đặc biệt là ngày 1 tháng 1, ngày 1 tháng 5, ngày 25 tháng 12. Mỗi thành phố hoặc mỗi vùng đều sở hữu những ngày lễ kỷ niệm của riêng mình ví dụ như ngày lễ của vị thánh bảo vệ họ, thêm vào đó là những ngày lễ toàn quốc, người Ý kỷ niệm hầu hết các ngày lễ của Cơ đốc giáo ví dụ như giáng sinh, lễ phục sinh cùng với những ngày lễ khác như ngày giải phóng vào ngày 25 tháng 4, ngày Hiển linh vào ngày 6 tháng 1, ngày lễ tình nhân ngày 14 tháng 2, ngày quốc tế phụ nữ ngày 8 tháng 3, ngày quốc tế lao động ngày 1 tháng 5 và lễ quốc khánh ngày 2 tháng 6.

Các ngày nghỉ, lễ tết

  • Giáng sinh, năm mới và ngày lễ phục sinh
  • 6/1: Ngày chúa Giê su hiển linh
  • 25/4: Ngày giải phóng
  • 1/5 – Quốc tế lao động
  • 1/11 – Ngày của thánh
  • 8/12 – Ngày của sự tinh khiết (Đức bà Mari)
  • 26/12 – Ngày tặng quà

“Lễ phục sinh lạnh” tại Italia

Đối với người theo đạo Thiên Chúa, Lễ phục sinh là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm cùng với Ngày Chúa giáng sinh (24-12). Lễ phục sinh thường diễn ra vào tháng 3 hay tháng 4 hằng năm nhằm tưởng niệm sự kiện Chúa Jesus sống lại  sau khi bị đóng đinh trên thập giá.

Giáng sinh

Ở Italia, gia đình quây quần bên nhau là chuyện thường diễn ra, nhưng tụ họp gia đình có một Italia nghĩa rất đặc biệt trong mùa Giáng sinh và Phục sinh. Các cửa hiệu được trang hoàng bằng những dây đèn, các nhóm “mục đồng” chơi kèn túi, những người bán dạo bán những bịch hạt rẻ rang nóng hổi.

Trong nhà, các gia đình làm những mô hình Chúa Giáng sinhthu nhỏ bày ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Các hình người ăn mặc theo trang phục truyền thống Italia và khung cảnh cũng mang vẻ Italia hơn là ở Bethlehem, nơi Chúa Jesus ra đời. Cho dù gia đình có nghèo đến mấy đi nữa, thì mô hình này cũng có thể được làm từ những chất liệu rẻ tiền như giấy, đất xét và đá.
Giống như nhiều nước phương Tây, người Italia ngày nay thường kỷ niệm lễ Giáng sinh bằng cách dựng một cây thông trong nhà. Họ cũng đốt một khúc củi Noel được gọi là ceppo mỗi đêm và những đứa trẻ theo truyền thống được nhận những món quà vào ngày Giáng sinh và ngày 6 tháng Giêng, ngày Lễ Hiển linh. Lần tặng quà thứ hai được coi là của ông tiên nhân hậu Befana. Tất nhiên, những món quà đẹp chỉ dành cho những đứa trẻ ngoan, còn những đứa hư chỉ được nhận than và tro.

Những người ở xa luôn quay về với gia đình vào ngày lễ Giáng sinh. Vào Đêm Vọng Giáng sinh, đại gia đình (đôi khi số lượng có thể lên tới 70-80 người) cùng tham dự một bữa đại tiệc, mà các món chính là cá, trong đó lươn là món quan trọng nhất. (Trong mùa Giáng sinh, các chợ cá thường bày ngoài đường từng thùng lươn sống để lôi kéo khách hàng).

Suốt bữa tiệc, lũ trẻ hát những bài hát Giáng sinh và được người lớn vỗ tay khen ngợi hay thưởng tiền. Sau bữa tiệc, cả nhà chơi một trò chơi cổ, tương tự như trò bingo (một kiểu bài bạc), cuối cùng, tất cả tham dự thánh lễ lúc nửa đêm.

Cả gia đình lại tụ tập vào ngày hôm sau, sau một thành lễ khác, để ăn bữa tiệc trưa Giáng sinh, thường bắt đầu bằng món bột nhào thập cẩm ăn với nước dùng. Tiếp đó, là món gà Tây hay gà trống thiến béo ngậy, và kết thúc là món tráng miệng truyến thống của địa phương. Người Italia thích ăn món bành xốp panettone trong lễ Giáng sinh. Món panettone đặc trung được làm từ nho khô và các loại hoa quả tẩm đường, nhưng mỗi địa phương có một cách làm riêng. Một số được phủ một lớp Chocolate, số khác là hạnh nhân rang.

Mặc dù bữa ăn trước Giáng sinh và bữa trua Giáng sinh đều có thể gọi là những bữa đại tiệc, nhưng ở miền Nam, bữa tiệc ngày 24 trọng thể hơn, nhược lại với người miền Bắc. Nhiều gia đình người miền Nam ăn bữa trưa Giáng sinh chỉ với duy nhất một món cá. Một số khác làm khoảng 8-9 món nhưng cũng có những gia đình làm tới 13 hoặc 24 món.

Lễ hội ném cam

Lễ hội ném cam

Lễ hội Ivrea là một trong những lễ hội truyền thống nổi tiếng nhất ở đất nước hình chiếc ủng. Lễ hội, diễn ra từ ngày 2 đến mùng 5 tháng 2 hàng năm, độc đáo và thú vị, giống như một trận chiến thực thụ. Toàn bộ chiến binh lâm trận đều chiến đấu hăng say. Vũ khí của họ chính là những quả cam chín đỏ. Lễ hội ném cam này tái hiện một cuộc chiến có thật vào năm 1194, khi cô con gái tên Violetta của  ông chủ cối xay đứng lên chống lại một tên bá tước hung bạo, dẫn đến cuộc nổi dậy. Người dân vùng Ivrea và các khách du lịch trong và ngoài đất nước hình chiếc ủng tham gia lễ hội một cách say mê không chỉ vì không khí náo nhiệt vui vẻ mà còn chính vì ý nghĩa lịch sử đó.

Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, người tham gia chìm đắm trong hương vị những trái cam chín đỏ trong hàng ngàn thùng gỗ pha lẫn mùi rượu vang đỏ “Vin brulé” hăng hăng. Mọi người đi san sát bên nhau đổ về mọi hướng. Người chơi hội cũng có thể cưỡi ngựa lội trên thảm cam có khi dày đến hơn 20cm. Tiếng ngựa phi nước kiệu kéo theo các chiến binh của tên bạo chúa đội mũ và mặc áo giáp sắt, tiếng hô hào của những ngườâi nổi dậy và cả tiếng hò reo khi ông chủ cối xay trên xe ngựa chạy ngang qua tung hoa mimosa màu vàng và kẹo vào đám đông.   

Ân tượng về lễ hội càng trở nên sắc nét hơn bởi  vô vàn chiếc mũ màu đỏ khắp mọi nơi. Violetta và đám đông đội mũ dài màu đỏ tươi là biểu tượng của sự tự do. Vì vậy, người tham gia lễ hội không bị ném cam vào người khi đội chiếc mũ màu đỏ đó. Dẫu vậy, họ vẫn khó có thể tránh khỏi những trái cam, dù không bị ném trực tiếp. Thế nhưng để thực sự tham gia vào lễ hội và vui hết mình, người chơi cần phải bỏ mũ và nhảy vào vùng chiến. Họ có thể đóng vai giới quý tộc, đại điện cho những kẻ hung bạo ngồi trên những chiếc xe tải, đụng độ với người dân địa phương cũng như du khách của thành phố có từ thời Trung cổ này. 

Cảnh kỳ thú nhất của lễ hội ném cam là lúc đi qua đoạn cầu cổ. Các đường phố nhỏ hẹp chất đầy cam nát cao đến nỗi thỉnh thoảng người ta phải dùng xe cán tuyết để dọn đường. Chỉ có duy nhất một tấm lưới nhỏ che chắn giữa vùng chiến sự, nếu muốn đi qua nó thì phải căn thời gian chuẩn, nếu không thì có thể sẽ bị dính rất nhiều “đạn cam”. Trước đây, cam được phép ném qua cả cửa sổ dẫu người dự lễ hội có đội mũ đỏ hay không, Nhưng do việc này có thể gây nguy hiểm nên ngày nay người tham gia chỉ được ném cam từ mặt đất vào xe ngựa hoặc xe tải và ngược lại. 

Giống với các cuộc chiến thực sự, lễ hội ném cam này cũng không tránh khỏi cảnh thương tích. Mỗi dịp lễ hội, có tới hàng trăm nghìn người đổ về Ivrea và có tới cả trăm người bị thương. Thế nhưng, đây không phải là cuộc chiến, không phải bạo lực, mà là dịp mà người ta có thể giải tỏa căng thẳng, bạo lực trong lòng để sống vui vẻ hơn.

Lễ hội đua thuyền St. Ranieri tại Pisa, Italia

Lễ hội đua thuyền St. Ranieri tại Pisa, Italia

Pisa, Italia là nơi tổ chức cuộc đua thuyền St. Ranieri vào ngày 17/6 hằng năm. Đây là hoạt động bày tỏ lòng biết ơn với các vị thần đã bao bọc và chở che cho Pisa.

Cuộc đua thuyền St. Ranieri diễn ra trên sông Arno. Các tay đua sẽ phải vượt qua quãng đường 1500 mét, với 4 thuyền đua có màu khác nhau và phải đi qua 4 quận của thành phố.

Mỗi một thuyền tham gia đua phải có 8 người chèo thuyền, trong đó có một người lái thuyền, và một người chèo chính – người này sẽ phụ trách việc cầm lá cờ chiến thắng khi kết thúc đường đua.

Đội chiến thắng sẽ nhận các loại phần thưởng khác nhau, thường là những con vật thật đặc biệt.

Có người nhận được một con bò đực, có người lại được một con cừu, một con lợn. Tuy nhiên những người thua cuộc cũng nhận được phần thưởng là một con gà trống hoặc một con ngỗng non. Lễ hội này được bắt nguồn từ thế kỉ thứ XII khi những cuộc tranh chấp giữa những người sống dưới nước và trên bờ diễn ra thường xuyên.

Những căn nhà dọc hai bên bờ sông Arno sẽ thay đổi để phù hợp với cuộc đua thuyền cũng như những gì mà người ta tin là thần hộ mệnh của Pisa vào ngày 16/06 – trước khi cuộc đua diễn ra 1 ngày. Những tòa nhà, những cây cầu và lan can dọc theo bờ sông được thắp sáng bằng khoảng 70.000 ngọn nến lớn nhỏ khác nhau. Trong khi đó có hàng nghìn chiếc phao được quẳng khắp dòng sông.

Những cây nến được thắp khắp các lan can và trên cửa sổ của những căn nhà quay mặt ra sông, trên những mái nhà cao nhất và các ban công có thiết kế lạ mắt. Hàng nghìn người tới tham dự đều cảm thấy ngạc nhiên với công trình xếp nến này của ban tổ chức.

4 chiếc thuyền đua được sơn và trang trí bằng 4 màu khác nhau. Mỗi chiếc là biểu tượng đặc trưng của một sự kiện lịch sử có liên quan đến các quận của thành phố Pisa.

Phần phía nam của thành phố là quận Saint Martin với màu trắng và đỏ, quận Saint Anthony với màu màu trắng và xanh lá. Phía bắc là 2 quận Saint Mary với màu trắng và xanh dương, quận Saint Francis chọn màu trắng và màu vàng.

Cuộc đua thuyền quan trọng sẽ diễn ra vào ngày 17/06. Khi đó những tay đua phải chèo một mạch không nghỉ qua sông Arno với quãng đường là 1.500 mét, bắt đầu với hướng ngược dòng sông và kết thúc tại Palazzo Medici. Có hai con đường để đi tới đích và người chèo chính phải định hướng cho toàn bộ đội đua của mình về đích nhanh nhất.

Chèo thuyền theo dòng nước ngược có thể làm cho các tay đua phải nỗ lực nhiều hơn và cũng nhanh mất sức hơn. Ở những khúc cua, cuộc đua càng trở nên khốc liệt vì vậy cơ hội thắng cuộc sẽ thuộc về đội nào khéo léo nhất. 

Chiến thắng thuộc về đội có người chèo chính giật được ngọn cờ có tên là “paliotto”.Ba “paliotto” được đặt ở 3 nơi khác nhau. Trong đó có một lá cờ xanh dương, một là màu trắng và cuối cùng là cờ đỏ. Một cặp ngỗng non sẽ là giải thưởng cho tay chèo thuyền nào lấy được cả 3 ngọn cờ.

Việc giành những lá cờ này bắt nguồn từ lịch sử khi những thủy thủ Ý phải đấu tranh để giành lấy ngọn cờ từ tay binh lính hải quân Thổ Nhĩ Kì và nó được giữ ở Pisa cho đến ngày nay. 

Lế hội này được tổ chức lần đầu tiên St. Ranieri vào năm 1718 nhưng nó không được chấp nhận cho đến tận năm 1737, lễ hội đua thuyền mới được tiếp tục tổ chức. St. Ranieri trở thành hoạt động văn hóa thường niên từ năm 1935.

Lễ  hội đua ngựa Palio – Italia

Lễ hội đua ngựa Palio – Italia

Thành phố Siena, Italia là nơi diễn ra một trong những ngày hội ấn tượng và được mong chờ nhất hành tinh — ngày hội đua ngựa Palio.

Bắt đầu từ năm 1644, ngày hội đua ngựa Palio được tổ chức hàng năm vào 2/7 và 16/8 giữa các quận của thành phố Siena nhằm tôn vinh Đức Mẹ đồng trinh. Cả thành phố có tất cả 17 quận nhưng sẽ chỉ có 10 quận được tham gia trong mỗi ngày hội, 7 quận chưa tham gia ngày hội trước và 3 quận may mắn sẽ tiếp tục tham gia. Mỗi quận tham gia với một ngựa và một người cưỡi.

Diễn ra tại Piazza de Campo — quảng trường trung tâm Siena, ngày hội Palio sẽ đưa bạn trở về thời trung cổ ở châu Âu với những kị sỹ ăn vận trang phục mang sắc màu và biểu tượng riêng của từng quận, cưỡi ngựa không thắng yên trên đường đua đầy cát bụi và sỏi đá. Trên đường đua, các kị sỹ có thể bị hất văng khỏi ngựa của mình, và chú ngựa nào cán đích trước tiên sẽ mang chiến thắng về cho quận đó. Nói một cách khác, người chiến thắng thực sự trong cuộc đua chính là các chú ngựa. Nhiệm vụ của các kị sỹ là bám chắc lưng ngựa và làm cho các chú ngựa khác tránh xa ngựa của mình.

Trước khi cuộc đua chính thức diễn ra vài ngày sẽ diễn ra 6 lần đua thử để ngựa quen với đường đua và đám đông. Lần đua thử đầu tiên diễn ra vào tối chọn ngựa (thường vào 29/06 hoặc 13/08) và lần cuối cùng diễn ra vào buổi sáng ngày đua chính thức. Những lần đua thử cũng thu hút sự chú ý của nhiều người.

Ngay từ sáng sớm, hàng ngàn người đã tập trung chật kín quảng trường Piazza để chứng kiến ngày hội có một không hai này. Trong ngày hội, trước khi diễn ra cuộc đua, mỗi quận sẽ có 17-18 người ăn vận trang phục thời trung cổ (ít hơn với những quận không tham gia) diễu hành xung quanh thành phố, và điểm đến cuối cùng là xung quanh quảng trường.

Cuộc đua chính thức diễn ra vào 7h hoặc 7h30 tối — một trong những đêm được mong chờ nhất của người dân thành phố Siena. Chỉ 3 vòng đua xung quanh quanh quảng trường, trong một thời gian rất ngắn nhưng la những giây phút căng thẳng, hồi hộp nhất và cuối cùng vỡ òa trong niềm vui chiến thắng.

Khi cuộc đua kết thúc, những người chiến thắng sẽ ùa vào đường đua, ôm hôn nhũng chú ngựa và những kị sỹ anh hùng của họ. Có những giọt nước mắt hạnh phúc lăn dài trên khuôn mặt, bao tháng ngày chuẩn bị cho những giây phút hạnh phúc ấy đã được đền bù xứng đáng.

Phần thưởng dành cho người thắng cuộc là một lá cờ Đức Mẹ với tên của người chiến thắng. Nhưng phần thưởng lớn nhất có lẽ là niềm hạnh phúc và vinh dự to lớn dành cho cả quận. Những bữa tiệc, những cuộc diễu hành khắp thành phố, ca hát, nhảy múa trong niềm hạnh phúc tột cùng diễn ra nhiều ngày sau đó.
Không chỉ là ngày hội lớn của riêng người dân Siena, Palio di Siena còn thu hút rất nhiều du khách từ khắp nơi trên nước Ý cũng như trên thế giới. Ai cũng mong muốn được một lần hòa mình trong bầu không khí sôi động của một trong những lễ hội độc đáo và hoành tráng nhất thế giới.

Hoạt động kinh doanh tại Ý

Đơn vị tiền tệ chính tại Ý là Euro. Ý nổi tiếng về văn hóa lấy gia đình làm trung tâm,và có những cơ sở kinh doanh gia đình vừa và nhỏ. Mặc dù có nhiều công ty lớn như Fiat và Benetton nhưng vẫn được quản lý bởi môt gia đình. “Nhiều người nhập cư từ Ý, về bản chất họ vẫn giữ nguyên truyền thống giới tính, đối với cha mẹ họ vẫn kiên định về vai trò giới tính trong gia đình, điều này là thách thức đối với thế hệ trẻ vì vai trò giới tính đã hình thành thành trong văn hóa Mỹ và ngày nay trái ngược với việc người cha là trụ cột gia đình và không thể cãi lại, còn người mẹ là người nội trợ và chăm sóc cho các con” theo Wagner. Các cuộc họp thường rất ít trang trọng hơn những nước khác như Đức với Nga, và trong gia đình họ sẽ thoải mái trao đổi, các doanh nhân Ý thường có xu hướng thận trọng với lời nói của mình đối với người ngoài, họ thích trao đổi với những người mà họ đã quen biết rõ.

Cái nôi của nền văn minh Châu âu

Italia từng là nơi xuất phát của nhiều nền văn hoá châu Âu, như Etruscan và La Mã, và sau này cũng là nơi sản sinh ra phong trào Phục hưng Italia. Thủ đô Roma của Italia từng là trung tâm của nền Văn minh phương Tây, và là trung tâm của Giáo hội Công giáo La Mã.

Có người cho rằng người Italia đã sáng lập ra du lịch từ thế kỷ 16, nhưng chắc chắn không một quốc gia nào trên thế giới có thể để lại cho nhân loại nhiều biểu tượng văn hóa, ngành công nghiệp ôtô hàng đầu, kiến trúc, thời trang, các vở opera kinh điển, hội họa, điêu khắc và ẩm thực.

Mãi đến năm 1861, Italia mới trở thành một nước thống nhất từ nhiều lãnh thổ tự trị. Điều này đã hình thành nên các truyền thống và tập tục đặc trưng từng vùng, làm nên bản sắc văn hóa Italia ngày nay. Ngược lại với sự cô lập chính trị và xã hội của các vùng này, Italia vẫn có những đóng góp đáng kể vào di sản văn hóa và lịch sử của châu Âu và thế giới. Hiện nay Italia được coi là nơi lưu giữ nhiều công trình di sản văn hóa thế giới bậc nhất.

Văn hóa của Italia tiết lộ trong các di tích cổ và tàn tích lịch sử, phản ánh tinh thần giác ngộ và sang trọng

Kể từ khi ra đời, đất nước đã đóng góp đủ vào sự tiến bộ của nền văn hóa thế giới. Những người Italia, chuyên gia và hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực văn hóa như văn học, âm nhạc, kiến trúc và điêu khắc là các tác giả của kiệt tác trong các lĩnh vực tương ứng. Mặc dù tất cả những khác biệt khu vực và địa hình, di sản văn hóa của Italia là điều mà các cherish Italia và tự hào về, và họ cảm thấy đặc quyền này để bàn giao di sản văn hóa phong phú cho tới thế hệ tới.

Sự mở rộng của Văn hóa của Italia đã bắt đầu chủ yếu trong thời Phục hưng đó bắt đầu một cuộc cách mạng toàn diện trong lĩnh vực văn hóa khác nhau trên toàn cầu. Hiệu quả của thời Phục Hưng ở châu Âu đã được trực tiếp cảm thấy trên bán đảo Italia. Kết quả là, thời kỳ này đã chứng kiến một số thay đổi mạnh mẽ, vô cùng ảnh hưởng đến trí tưởng tượng, sáng tạo, hàng tồn kho và trí tuệ của con người nói chung. Chuyển đổi đột ngột này, nhưng rõ ràng đã được hấp thu trực tiếp của dân Italia và tiết lộ trong các tác phẩm nghệ thuật sau này.

Điêu khắc, kiến trúc, nghệ thuật, khoa học, ngôn ngữ, văn học, thể thao, triết lItalia và âm nhạc được mua một chiều hướng mới trong các mặt văn hóa mới này và trỗi dậy ngoạn. Tác phẩm nổi tiếng đã được sản xuất bởi cá tính ưu việt của Italia. Trong lĩnh vực văn học, một số kiệt tác như “The Divine Comedy” được viết bởi Dante Alighieri. Một hình thức mới của phong cách thơ được gọi là “Sonnet” tiến hóa do thời Phục Hưng. Sonnet như là một hình thức nổi bật của phong cách văn học đã được giới thiệu của nhà thơ nổi tiếng Italia, Petrarch và sau đó theo sau Shakespeare. Nhà triết học của thanh danh như Niccolò Machiavelli với tạo đời đời của ông, “The Prince” đề xuất phương pháp mới của cầm quyền đất nước và dẫn đầu chính phủ. Machiavelli của việc thay đổi các chính trị Nhận định hiện hành và sửa đổi các quan điểm thiên vị đến một mức độ lớn. Tên của Michelangelo (người sáng tạo của David, Pietà và Môi-se), Leonardo da Vinci (họa sĩ của Monalisa), Titian và Raphael là inseparably liên kết với tác phẩm điêu khắc Italia và tranh vẽ.

Trong khi đó, tiến bộ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ là lúc chiều cao của nó với sự đóng góp bao la Galileo Galilei trong thiên văn học. Các nhà vật lItalia nổi tiếng, Fermi nghiên cứu LItalia thuyết lượng tử, trong khi những vấn đề liên quan đến pin điện đã được đưa chăm sóc bởi Volta. Như nhà toán học Lagrange và Fabonacci, người đoạt giải Nobel như Marconi (phát minh ra đài phát thanh) và Antonio Mencci đóng góp vô cùng hướng tới sự phát triển văn hoá của Italia trong độ tuổi này.

Đa dạng các loại hình văn học nghệ thuật

Một loạt các trào lưu nghệ thuật và trí thức lan rộng khắp châu Âu bắt nguồn từ Italia, bao gồm Thời Phục hưng và Thời Ba-rốc, cùng với những nghệ sĩ đã đi vào huyền thoại như Michelangelo, Leonardo da Vinci, Donatello, Botticelli, Fra Angelico, Tintoretto, Caravaggio, Bernini, Titian và Raffaello.

Về văn học:

Văn học Italia có truyền thống nổi tiếng lâu đời về tính chất sáng tạo mới mẻ và tính độc đáo. Truyền thống La tinh được các học giả lưu giữ, ngay cả sau khi đế chế La Mã phương Tây suy vong. Nền văn học Italia thể hiện một quá trình thay đổi lớn qua sự phát triển của thời kỳ phục hưng và đã được thể hiện qua những tác phẩm của Aligheiri Dante, Petrarch, và Boccaccio. Các tác phẩm Divine của Dante, Sonnets của Petrarch đến tác phẩm Decamerone của Laura và Boccaccio đều là những tác phẩm tiêu biểu đối với các nhà văn trong thời phục hưng sau này.

Ngôn ngữ Italia hiện đại xuất phát chủ yếu từ phương ngữ của vùng Firenze và một trong những người có công xây dựng tiếng Italia chính là Dante Alighieri, tác giả của tác phẩm danh tiếng “Divina Comedia” (Thần khúc), được coi là một trong những tuyên ngôn văn chương đầu tiên xuất hiện ở châu Âu và thời Trung đại.

Ngoài ra, một cách biểu đạt văn chương mới, thể loại sonnet, cũng được sáng tạo ra từ Italia, qua các tác giả văn học nổi tiếng như: Boccaccio, Giacomo Leopardi, Alessandro Manzoni, Tasso, Ludovico Ariosto, và Petrarch. Ngoài ra không thể không kể đến những triết gia điển hình như: Bruno, Ficino, Machiavelli, và Vico.

Tác giả văn học hiện đại đoạt giải Nobel là nhà thơ Giosuè Carducci vào năm 1906, Grazia Deledda năm 1926, Salvatore Quasimodo năm 1959 và nhà viết kịch sân khấu Dario Fo năm 1997.

Giai đoạn văn học của Italy lớn nhất là trong thế kỷ 14 Ba nhà văn quan trọng nhất là Dante, Petrarca và Boccaccio. Dante nổi tiếng với các Divine Comedy, đó là thực sự về Thiên đàng và địa ngục! Trong thực tế, mô tả của ông về cả Heaven và Hell rất nhiều liên kết với các khái niệm hiện đại của Petrarca làm việc hơn là triết học, được gọi là ‘cha đẻ của nhân văn “.. Như một nhà thơ, ông hoàn thiện các Sonnet. Boccaccio đã viết một số tác phẩm vượt thời gian và’ ông Decameron ‘có thể được hưởng ngay cả của người đọc hiện đại .

Về Âm nhạc:

Từ âm nhạc dân gian tới âm nhạc cổ điển, âm nhạc luôn đóng vai trò quan trọng trong văn hoá Italia. Là nơi sinh của opera, và ngôn ngữ của Italia đã cung cấp từ vựng âm nhạc, thiết lập nhiều nền tảng cho truyền thống âm nhạc cổ điển. Vào cuối thế kỷ XVI, các nhạc sĩ và thi sĩ thời Phục hưng ở Florence bắt dầu đưa thơ vào nhạc.

Những vở opera đầu tiên được sang tác vào đầu thế kỷ XVII tại Roma, Venice và Napoli. Khi sự yêu chuộng opera lan ra khắp nước, mỗi thành phố đã phát triển một phong cách opera của riêng mình. Nhà soạn nhạc Claudio Monteverdi, được coi là cha đẻ của opera hiện đại, là người đứng đầu trong số những nhà soạn nhạc thuộc trường phái Venice. Nhiều tác phẩm của ông được trình diễn trong nhá hát opera công cộng đầu tiên của Italia tại Venice năm 1637.

Chẳng mấy chốc, các nhạc sĩ hàng đầu châu Âu như Frideric Handel đã tới Italia để nghiên cứu opera. Vào cuối thế kỷ XVII, Alessandro Scalatti đã sang tác gần 100 bản opera và làm cho Napoli trở thành trung tâm của opera. Trong thế kỷ XVIII, phần kịch bản của opera trở nện quan trọng hơn, và những khúc nhạc cũng phức tạp hơn. Nhà hát opera nổi tiếng nhất châu Âu, La Scala, được khánh thành tại Milan năm 1778, và thậm chí cả Mozart vĩ đại cũng bắt đầu soạn những vở opera để trình diễn ở đây.

Thế kỷ XIX là thời kỳ âm nhạc thịnh vượng nhất tại Italia. Gioachino Antonio Rossini sang tác vở opera hài hước kinh điển Người thợ cạo thành Seville năm 1816. Giuseppe Verdi, được coi là nhà soạn nhạc tài năng nhất Italia, đã soạn 26 vở opera, trong đó có các vở Rigoletto (1851), Il Trovatore (1853), La Traviata (1853) và Aida (1871). Vở Aida được sáng tác ở Ai Cập, được trình diễn với những con lạc đà và voi thật trên sân khấu. Những vở opera của Verdi nổi tiếng bởi cốt truyện xúc động và các nhân vật chân thực. Một số vở opera của ông được rút ra từ những tác phẩm của Shakespeare và Victor Hugo, và các chủ đề của ông thường gắn với đấu tranh chống áp bức. Gia Puccini cũng là một nhà soạn nhạc tầm cỡ của thời kỳ này. Các vở La Boheme (1869) và Madame Butterfly (1904) của ông ngày nay vẫn còn được khán giả yêu thích bởi cốt truyện lãng mạn, xúc động và những giai điệu mượt mà.

Opera của Italia nguyên chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu. Với việc mở cửa nhà hát opera công cộng tại Venice, nó trở thành nguồn giải trí của mọi người. Vào đêm khai mạc một vở diễn mới, đám đông khan giả lèn chặt nhà hát. Mọi người bàn luận về vở opera mới sau khi xem. Vào thế kỷ XIX, đi xem opera trở thành một sinh hoạt xã hội chủ yếu của người Italia. Thậm chí ngày nay, khán giả opera Italia vẫn thích bàn luận về opera hay những vấn đề khác trong buổi diễn; vài người theo dõi sát những diễn biến trên sân khấu, số người khác thì bình phẩm với người xung quanh.

Là nơi sản sinh ra dòng nhạc opera, Italia đã xây dựng nền tảng vững chắc cho truyền thống âm nhạc cổ điển. Các nhạc cụ cổ điển như dương cầm và viôlông được sáng tạo ra từ Italia và nhiều thể loại nhạc cổ điển như giao hưởng, côngxectô và xô nát cũng đã xuất hiện từ thế kỷ 16,17 trong nền âm nhạc nước này. Những nhà soạn nhạc tài ba của Italia trong thời kì Phục hưng là: Palestrina và Giusseppe Verdi, các nhà soạn nhạc Ba-rốc như: Alessandro Scarlatti và Vivaldi, các nhà soạn nhạc cổ điển như Rossini và Paganini, nhà soạn nhạc lãng mạn như Verdi và Puccini. Hai nhà soạn nhạc Berio và Nono cũng có góp quan trọng vào nền âm nhạc hiện đại với sự phát triển của nhạc điện tử thử nghiệm.

Các nhạc cụ gắn liền với âm nhạc cổ điển, và nhiều hình thức âm nhạc cổ điển hiện tại đều có thể tìm thấy nguồn gốc từ những phát minh ở thế kỷ 16 và 17 trong âm nhạc Italia(như symphony, concerto và sonata). Một số nhà soạn nhạc Italia nổi tiếng nhất gồm các nhà soạn nhạc thời Phục hưng Giovanni Pierluigi da Palestrina và Claudio Monteverdi, các tác gia phong cách Baroque Arcangelo Corelli và Antonio Vivaldi, các nhà soạn nhạc Cổ điển Niccolò Paganini và Gioacchino Rossini, và các nhà soạn nhạc Lãng mạn Giuseppe Verdi và Giacomo Puccini. Các nhà soạn nhạc Italia hiện đại gồm Luciano Berio và Luigi Nono cũng đóng góp đáng kể cho sự phát triển của âm nhạc thể nghiệm và âm nhạc điện tử.

Về Kiến trúc

Thành phố như Venice

Italia tự hào có một thời gian dài phong cách kiến trúc khác nhau, từ cổ điển La Mã và Hy Lạp, Gothic, Phục Hưng, Baroque, Neo-Classical, Art Nouveau để hiện đại. Kiến trúc Italiabắt đầu với Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại và Etruscan, khi cả hai nền văn minh được xây dựng đền thờ, basilicae, cột, các diễn đàn, cung điện, aqueducts, tường và phòng tắm công cộng. Sau khi các nền văn minh cổ điển, tiếng Italia phát triển một kiến trúc nổi tiếng Gothic đặc biệt là hướng tới thế kỷ 12. Thành phố như Venice, Vicenza, Florence, Siena, Assisi và Pisa chủ yếu là bị ảnh hưởng bởi thời kỳ kiến trúc Gothic và Roman. Sau đó, trong thế kỷ 15 và 16, Italia đã trở thành nơi sinh của Phục hưng với Florence và Rome là trung tâm chính của nó. Sau đó, Italia đã trở thành một trung tâm chính của châu Âu cho baroque, với đa dạng phong cách kiến trúc baroque mới nổi, đặc biệt là ở Sicily. Sau đó, trong tân thế kỷ 18 và 19-tòa nhà theo phong cách cổ điển bắt đầu xuất hiện tại Rome, Milan, Torino và tất cả xung quanh Italy. Hiện nay, kiến trúc và thiết kế ở Italia được coi là đẳng cấp thế giới và rất nổi tiếng với Milan là thủ đô của đất nước. Nhiều kiến trúc sư người Italia hiện đại, như Renzo Piano, nổi tiếng trên toàn thế giới.

Kiến trúc Gothic 

Kiến trúc Gothic xuất hiện ở Italy vào thế kỷ thứ 12. Kiến trúc Gothic luôn luôn duy trì đặc thù mà phân biệt sự tiến hóa của nó từ đó ở Pháp, nơi mà nó có nguồn gốc, và ở các nước châu Âu khác. Đặc biệt, các giải pháp ardite kiến trúc và đổi mới kỹ thuật của nhà thờ Gothic Pháp không bao giờ xuất hiện: kiến trúc sư người Italia ưa thích để giữ truyền thống xây dựng thành lập tại các quốc gia trước đó. Thẩm mỹ, tại Italia sự phát triển theo chiều dọc là hiếm khi quan trọng.

Kiến trúc Phục Hưng

Italiacủa thế kỷ 15, và thành phố của Florence nói riêng, là quê hương của thời Phục Hưng. Đó là ở Florence rằng phong cách kiến trúc mới đã bắt đầu của nó, không phải từ từ tiến triển trong cách Gothic đã tăng trưởng trên Romanesque, nhưng Italia thức được đưa đến bởi kiến trúc sư cụ thể những người đã tìm cách khôi phục trật tự của một quá khứ “Golden Age”. Phương pháp học đến kiến trúc của các cổ trùng hợp với sự hồi sinh chung của học tập. Một số yếu tố có ảnh hưởng lớn trong việc mang về điều này.Sự hiện diện, đặc biệt là tại Rome, các kiến trúc cổ xưa vẫn còn hiển thị theo phong cách ra lệnh cổ điển được cung cấp một nguồn cảm hứng cho các nghệ sĩ tại một thời điểm khi triết lItalia cũng đã được chuyển về phía cổ điển.

Về Bảo tàng

Nghệ thuật và viện bảo tàng ở Italia giành được danh tiếng của nó trên toàn thế giới. Các viện bảo tàng Italia như một bộ sưu tập độc đáo của nghệ thuật và văn hóa mà nó có đúng được gọi là fide bona mở không khí nghệ thuật thư viện. Các bộ sưu tập của nghệ thuật và viện bảo tàng là những kho báu của Italia. Theo nguồn tin của UNESCO, Italia có hơn một nửa số bộ sưu tập của thế giới về nghệ thuật và viện bảo tàng. Italia bao gồm nghệ thuật của nhà thờ, nhà thờ, tu viện pariches, convents, thánh đường, lâu đài và biệt thự.
Venice ở Italia có một số viện bảo tàng ngoài trời tuyệt vời. Venice của Bảo tàng nghệ thuật hiện đại và Bảo tàng Nghệ thuật phương Đông nổi tiếng với những bức tranh đẹp của nó. Các Bảo tàng Peggy Guggenheim và Bảo tàng Correr nổi tiếng về bức tranh nghệ thuật. Các Peggy Guggenheim Museum từng là nơi ở của những người Mỹ heiress Peggy Guggenheim. Bảo tàng có một số bức tranh đẹp của Picasso, Chagall, Mondrian, Kandinski và Đại Italia.
Các thư viện Accademia của Venice nổi tiếng với những bức tranh của các lần thứ 14 và thế kỷ thứ 15. Bộ sưu tập này có bức tranh của Titian, Tintoetto và Canaletto Arsenale Bảo tàng. Có mô hình Serenissima Tàu và các mô hình khác trong lịch sử hải quân.
Bảo tàng Correr ở Venice lần đầu tiên bắt đầu năm 1830 với sự tài trợ của các bộ sưu tập nghệ thuật của Teodoro Correr. Các bức tranh của Carpaccio đã giành được danh tiếng cho bảo tàng này.. Bức tranh của những con người trẻ tuổi và hai nữ Venezia rất đáng xem. Còn bảo tàng nghệ thuật của Grande Scuola di San Rocco có một số bộ sưu tập tuyệt vời của bức tranh của Tintoretto.

Điện ảnh Italia

Cùng với điện ảnh Pháp, điện ảnh Italia là một trong những nền điện ảnh lâu đời nhất thế giới và là trụ cột của ngành công nghiệp điện ảnh châu Âu. Italia và Pháp cũng là hai quốc gia dẫn đầu về số Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất, vượt xa các nền điện ảnh lớn khác.Chỉ vài tháng sau khi Anh em Lumière phát minh ra kỹ thuật điện ảnh, nền nghệ thuật mới này đã xuất hiện ở Roma, Italia khi Giáo hoàng Leo XIII được ghi hình trong thời gian vài giây trong khi đang cầu nguyện.
Công nghiệp điện ảnh Italia được thực sự hình thành trong khoảng thời gian từ năm 1903 đến 1908 với 3 hãng phim lớn, Cines ở Roma, Ambrosio ở Turino và Itala Film. Các hãng phim khác cũng nhanh chóng được thành lập tại Milano và Napoli. Chỉ trong thời gian ngắn, các công ty này đã nhanh chóng sản xuất được những bộ phim có chất lượng và thực hiện việc xuất khẩu phim ra bên ngoài nước Italia. Sở trường thời bấy giờ của điện ảnh nước này là các bộ phim lịch sử với tác phẩm đầu tiên là La presa di Roma, 20 settembre 1870 được đạo diễn Filoteo Alberini thực hiện năm 1905. Các bộ phim tiếp theo nói về những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử như Bạo chúa Nero, Julius Caesar và Cleopatra được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Bộ phim của Arturo Ambrosio, Gli ultimi giorni di Pompei (Ngày cuối cùng của Pompei, 1908) nổi tiếng tới mức chỉ sau đó 5 năm nó đã được làm lại một phiên bản khác do Mario Caserini đạo diễn. Các nữ diễn viên điện ảnh ngôi sao (tiếng Italia: diva) đầu tiên của công nghiệp điện ảnh Italia có thể kể tới Lyda Borelli, Francesca Bertini và Pina Menichelli, trong đó Francesca Bertini có lẽ là một trong những diễn viên đầu tiên xuất hiện trên bán khỏa thân trong một bộ phim.
Trong khi điện ảnh Italia đang phát triển rực rỡ thì chính quyền Phát xít Italia bắt đầu tăng cường kiểm soạt các loại hình nghệ thuật phổ biến, bao gồm cả điện ảnh. Dưới sự ủng hộ của Benito Mussolini, một khu vực lớn ở phía Tây Nam Roma đã được dành riêng để xây dựng một khu phố điện ảnh (ex novo) cực lớn lấy tên là Cinecittà. Khu phố này được quy hoạch để có tất cả những cơ sở cần thiết cho một bộ điện ảnh, bao gồm các rạp phim, các khu trường quay, khu kĩ thuật và thậm chí là một trường dạy quay phim cho các nghệ sĩ trẻ. Cùng lúc này, Vittorio Mussolini, con trai của nhà độc tài cũng đứng ra thành lập một công ty sản xuất phim quốc gia để tạo điều kiện hoạt động cho tất cả các tài năng điện ảnh, từ đạo diễn, nhà biên kịch đến diễn viên. Kết quả của những chính sách khuyến khích điện ảnh này là sự ra đời của một thế hệ đạo diễn cực kì tài năng gắn với Cinecittà trong đó phải kể tới Roberto Rossellini, Federico Fellini và Michelangelo Antonioni.

Đề tài Chủ nghĩa hiện thực mới

Thế chiến thứ hai bùng nổ buộc điện ảnh Italia phải tập trung cho các bộ phim mang tính chất tuyên truyền cho quân đội Phát xít. Tuy vậy năm 1942 đạo diễn Alessandro Blasetti lại cho ra đời bộ phim về tầng lớp bình dân Quattro passi tra le nuvole đánh dấu sự ra đời của trào lưu Hiện thực mới (neorealismo) trong nghệ thuật điện ảnh Italia.Trào lưu hiện thực mới thực sự bùng nổ và gây tiếng vang ngay sau khi chiến tranh kết thúc, chỉ trong thời gian cuối thập niên 1940, điện ảnh Italia đã chứng kiến sự ra đời của những bộ phim để đời như bộ ba Roma città aperta (1945), Paisà (1946), Germania anno zero (1948) của Roberto Rossellini. Tuy Cinecittà không thể hoạt động nhưng việc sản xuất phim vẫn được tiến hành ngoài trời, ngay trên những con đường bị tàn phá của một đất nước đã thua cuộc trong Thế chiến thứ hai. Những bộ phim khắc họa cuộc sống khó khăn của nước Italia sau chiến tranh và diễn xuất tuyệt vời của các diễn viên như Anna Magnani (diễn viên Italia đầu tiên giành Giải Oscar Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất) là một công cụ văn hóa quan trọng của chính quyền trong việc khích lệ tinh thần người dân.
Những năm sau chiến tranh cũng chứng kiến sự thăng hoa của một trong những đạo diễn Italia vĩ đại nhất, Vittorio De Sica, với một loạt bộ phim hiện thực kinh điển như Kẻ cắp xe đạp (Ladri di biciclette, 1948), Miracolo a Milano (1950) và Umberto D. (1952).
Với số lượng lớn tác phẩm đặc sắc, chỉ trong vòng hơn 10 năm từ 1947 đến 1959, điện ảnh Italia đã giành tới 5 Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất cho các phim Sciuscià(1947), Kẻ cắp xe đạp (1949), Le mura di Malapaga (1950, sản phẩm hợp tác với Pháp),La strada (1956) và Le notti di Cabiria (1957) trong đó 2 phim đầu do De Sica đạo diễn còn 2 phim cuối do Federico Fellini đạo diễn.

Trào lưu hiện thực mới hồng và phim hài

Sau Umberto D., trào lưu hiện thực mới trong điện ảnh Italia gần như chấm dứt, có lẽ một phần do điều kiện kinh tế và xã hội được cải thiện đã hướng các đạo diễn tới những đề tài mới tươi sáng hơn là các tác phẩm mang gam màu tối về cuộc sống. Thế chỗ nó là trào lưu hiện thực mới hồng (neorealismo rosa), vẫn là các bộ phim lấy đề tài xã hội Italia nhưng có sự góp mặt của các nữ diễn viên xinh đẹp như Sophia Loren, Gina Lollobrigida, Silvana Pampanini, Lucia Bosé.
Trào lưu hiện thực mới hồng được tiếp nối bằng những bộ phim hài đặc trưng kiểu Italia (Commedia all’Italiana) có đề tài xã hội cực kì nghiêm túc nhưng lại được diễn đạt bằng những đoạn thoại và cảnh phim hài hước, trào phúng. Bộ phim mở đầu cho trào lưu này làIsoliti Ignoti (1958) của đạo diễn Mario Monicelli. Vittorio Gassman, Marcello Mastroianni, Ugo Tognazzi, Alberto Sordi, Claudia Cardinale, Monica Vitti và Nino Manfredi là những ngôi sao lớn của thể loại phim này, họ cũng là những diễn viên tiêu biểu cho thời kì phục hồi của kinh tế Italia. Mastroianni còn là diễn viên chính của một trong những bộ phim Italia xuất sắc nhất thế kỷ, La dolce vita (1960) của Fellini, tác phẩm đoạt giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes năm 1960.

Phim miền Tây kiểu Italia

Những năm 1960 chứng kiến sự ra đời của một thể loại phim đặc sắc của Italia, những bộ phim miền Tây kiểu Italia (Spaghetti Western), vốn xuất phát từ những bộ phim miền Tây truyền thống của điện ảnh Hoa Kỳ nhưng lại được quay tại Italia với kinh phí thấp và kịch bản cũng như phong cách quay rất đặc sắc.

Đại diện tiêu biểu cho thể loại phim này là bộ ba phim dollar (Dollars Trilogy) của đạo diễn Sergio Leone gồm Per un pugno di dollari (1964), Per qualche dollaro in più (1965) và Il buono, il brutto, il cattivo (1966) đều do Clint Eastwood thủ vai chính và Ennio Morricone viết nhạc phim.

Giallo – Thể loại phim kinh dị

Giallo (màu vàng) là thể loại phim kinh dị kiểu Italia bắt đầu nổi lên trong thập niên 1960 và 1970 khi các đạo diễn Mario Bava, Riccardo Freda, Antonio Margheriti và Dario Argento thực hiện các bộ phim kinh dị và rùng rợn kinh điển sau này có ảnh hưởng lớn tới thể loại này của điện ảnh thế giới nhưLa maschera del demonio (1960), Danza macabra (1964),Reazione a catena (1971) và L’uccello dalle piume di cristallo (1970).Thể loại này được khai thác sâu hơn bằng những bộ phim điện ảnh kiểu tài liệu (Mondo movie) trong đó các cảnh quay được thực hiện bằng phong cách quay phim tài liệu với bối cảnh phim gần với hiện thực ở mức cao nhất. Tiêu biểu cho phong cách này là Mondo Cane (1962) của Gualtiero Jacopetti và đặc biệt là Cannibal Holocaust (1980) của Ruggero Deodato. Cannibal Holocaust được quay chân thực và kinh dị tới mức ở rất nhiều nước nó bị cấm phát hành và đạo diễn Deodato thậm chí còn bị mời hầu tòa vì các quan chức tưởng đây là một bộ phim tài liệu quay cảnh giết người thật (phim snuff – snuff film) và Deodato chỉ được thả sau khi đưa ra các bằng chứng cho thấy các diễn viên vẫn còn sống sau khi thực hiện các cảnh phim.

Cuộc khủng hoảng thập niên 1980

Từ cuối thập niên 1970 đến giữa thập niên 1980 điện ảnh Italia lâm vào tình trạng khủng hoảng kéo dài, các bộ phim nghệ thuật đăc trưng cho nghệ thuật thứ 7 Italia bị chia cắt khỏi dòng phim chính trên thị trường. Những bộ phim được ưa chuộng thời kì này thường chỉ là những bộ phim có chất lượng nghệ thuật thấp, thường là phim hài đề cập tới những điều cấm kị trong xã hội Italia, đặc biệt là về các đề tài tình dục.

Trong số ít ỏi các bộ phim có chất lượng nghệ thuật cao có thể kể tới tác phẩm hợp tácHoàng đế cuối cùng (The Last Emperor) của đạo diễn Bernardo Bertolucci, bộ phim này đã giành Giải Oscar Phim hay nhất cùng 8 giải Oscar khác. Một bộ phim xuất sắc khác làC’era una volta in America của Sergio Leone.

Thập niên 1990 đến nay

Cuối thập niên 1980 một thế hệ đạo diễn mới đã bắt đầu đem lại sức sống cho các bộ phim Italia. Sự hồi sinh của điện ảnh Italia bắt đầu với bộ phim gây tiếng vang Rạp chiếu bóng Thiên đường (Nuovo Cinema Paradiso, 1988) của Giuseppe Tornatore, tác phẩm chiến thắng tại hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại lễ trao Giải Oscar năm 1990. Cũng tại hạng mục này điện ảnh Italia còn hai lần chiến thắng khác vào thập niên 1990 với Mediterraneo (1991) của Gabriele Salvatores và Cuộc sống tươi đẹp (La vita è bella, 1998) của Roberto Benigni. Benigni cũng là người Italia đầu tiên giành tới 3 giải Oscar trong một năm với các giải Vai nam chính, Phim nói tiếng nước ngoài và Nhạc phim.

Đám cưới ở Italia

Văn hóa cưới hỏi ở Italia

Tại các nhà thờ, vào ngày có lễ cưới sẽ treo những dải ruban lớn nhiều màu sắc. Đây là cách báo hỉ truyền thống tại Italia.
Cũng tại đám cưới Italian truyền thống, cặp vợ chồng mới cưới khi bước ra khỏi nhà thờ và đi tới quảng trường của thị trấn thì thường được tung hoa giấy và gạo lên người. Hoa giấy tượng trưng cho tiền bạc và một tương lai tốt lành vì vậy mà càng được rắc nhiều hoa giấy thì cặp vợ chồng mới cưới càng gặp nhiều điều tốt lành. Sau khi làm lễ tại nhà thờ cô dâu chú rể tới nơi tổ chức ăn mừng đám cưới.
Trong đám cưới Italia bánh cưới thường có nhiều tầng với hai bức tượng nhỏ ở trên tượng trưng cho cô dâu chú rể. Mặt của hai bức tượng nhỏ này phải hướng ra phía quan khách tham dự đám cưới.Một điều không thể thiếu trong những đám cưới Italia truyền thống là khi một vị khách nam nào đó đứng lên với cốc rượu trong tay hô to “chúc mừng cặp vợ chồng mới cưới”. Ngay lập tức mọi người cùng vỗ tay và hàng trăm lời chúc mừng được tuôn ra. Và khi buổi lễ có vẻ giảm bớt không khí thì một người nào đó lại đứng lên và hô to “chúc mừng cặp vợ chồng mới cưới và đám đông sẽ đáp lại bằng những tràng pháo tay và những lời chúc tụng. Tiếp đó khi một người bất kỳ nào trong đám cưới (thường là nam) đứng lên nói “hôn nhau đi, chúng tôi muốn được thấy các bạn hôn”. Thì sau đó cô dâu chú rể từ từ đứng dậy và hôn nhau.
Các đám cưới Italia thường diễn ra rất náo nhiệt, linh đình và các thực khách chỉ ra về khi họ cảm thấy không thể tự đi về nhà được và cần một người nào đó đưa họ về. Cô dâu và chú rể đi tới mỗi bàn của khách chào đón khách và sau đó nhẹ nhàng kín đáo rời bữa tiệc để đi hưởng tuần trăng mật và thậm chí không hề mở một gói quà nào. Họ hàng người thân của cô dâu chú rể vui vẻ chấp nhận điều đó và tiếp tục tiệc cưới.

Trang phục

Trang phục tinh tế

Thường thì trang phục ở Italia có xu hướng chính thức cho cả nam và nữ, cả ở trong công việc và các trong tình huống xã hội. Hãy cố hết sức lựa chọn trang phục sao cho chúng vừa đẹp vừa có phong cách.
Các màu thường được sử dụng trong ăn mặc là màu sẫm đậm, nâu nhạt. Các màu sáng hơn thường được dùng cho các đồ cá nhân
Quần bò và giày thể thao trên đường là đồ thư giãn có thể chấp nhận được (đặc biệt là cho thanh niên), mặc dù trang phục này thường dành cho các môn thể dục và bãi biển. Cách ăn mặc này sẽ không được chấp nhận trong các bối cảnh công việc.
Mùa hè thường nóng và ẩm, trong khi mùa đông thường mát và ẩm ở miền Nam và có thể rất lạnh ở miền Bắc. Tuy nhiên, ngoại trừ những nơi có núi…

Italia rất ồn ào

Có một điều rất trái ngược trong đời sống văn hoá Ý chính là nếu như buổi tối, Ý rất bình yên thì ban ngày, nơi đây tràn ngập những âm thanh xô bồ. Đi du lịch Ý, bạn sẽ dễ dàng nhìn thấy mọi người cười đùa thoải mái, đàn hát, chơi nhạc cụ trên các con phố và trẻ em cũng nô đùa tung tăng trong mọi góc phố. Có thể nói, Italia là quốc gia sôi động và vui nhộn bậc nhất Châu Âu.

Xem thêm

Gia sư Tiếng Ý

Phát âm tiếng Ý

Bảng chữ cái tiếng Ý

Văn hóa Ý

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*