✅ Hội họa là gì? ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐️

4/5 - (2 bình chọn)

Hội họa là một phạm trù thuộc ngành mỹ thuật (bên cạnh đồ họa nghệ thuật và điêu khắc). Hiểu một cách đơn giản, hội họa là vẽ tranh. Đó là sự sắp xếp (bố cục) các hình khối, đường nét, màu sắc, kết cấu vv…trên bề mặt hai chiều (giấy hoặc vải) để tạo ra một hình ảnh mang tính thẩm mỹ sử dụng cọ bút và màu vẽ. Người thực hiện công việc này là họa sĩ; một tác phẩm hội họa/tranh vẽ chủ yếu bày tỏ ý tưởng, cảm xúc, thị yếu về cái đẹp dựa trên kĩ thuật vẽ tranh của họa sĩ. Ba thể loại hội họa thường thấy là chân dung, phong cảnh và tĩnh vật.

Hội họa là một phạm trù đã xuất hiện từ rất lâu, khi mà con người chưa phát minh ra giấy để vẽ. Vì vậy mà người cổ đại đã vẽ lên những vách đá trong các hang động bằng nhiều cách khác nhau. Và hội họa có lẽ bắt nguồn từ những hình vẽ thô sơ thuở xa xưa.

Khái niệm

Các tác phẩm hội họa có thể mang tính tự nhiên và đại diện (như trong tranh tĩnh vật và tranh phong cảnh), nhiếp ảnh, trừu tượng, tường thuật, tượng trưng (như trong nghệ thuật Tượng trưng ), giàu cảm xúc (như trong Chủ nghĩa biểu hiện), và về bản chất chính trị (như trong chủ nghĩa nghệ thuật).

Một phần lịch sử hội họa của cả nghệ thuật phương Đông và phương Tây đều bị chi phối bởi nghệ thuật tôn giáo. Ví dụ về loại tranh này bao gồm các tác phẩm nghệ thuật mô tả các nhân vật thần thoại trên đồ gốm. Các cảnh trong Kinh thánh trên trần nhà nguyện Sistine. Đến các cảnh về cuộc đời của Đức Phật (có nguồn gốc tôn giáo phương Đông).

Các trường hợp ngoại lệ được tìm thấy trong tranh mạn đà la Tây Tạng, nơi sử dụng bột màu. Hội họa như một phương tiện đã tồn tại hàng ngàn năm và cùng với vẽ và điêu khắc. Một trong những phương tiện sáng tạo lâu đời nhất. Nó được các nền văn hóa trên thế giới sử dụng dưới một số hình thức. 

Tính chất

Các tác phẩm hội họa có thể mang tính tự nhiên và đại diện (như trong tranh tĩnh vật và tranh phong cảnh), nhiếp ảnh, trừu tượng, tường thuật. Nghệ thuật Tượng trưng, giàu cảm xúc (như trong Chủ nghĩa biểu hiện), và về bản chất chính trị (như trong chủ nghĩa nghệ thuật).

Một phần lịch sử hội họa của nghệ thuật phương Đông và phương Tây đều bị chi phối bởi tôn giáo. Ví dụ loại tranh này bao gồm các tác phẩm mô tả các nhân vật thần thoại trên đồ gốm. Các cảnh trong Kinh thánh trên trần nhà nguyện Sistine. Đến các cảnh về cuộc đời của Đức Phật (hoặc hình ảnh khác có nguồn gốc tôn giáo phương Đông).

Các trường hợp ngoại lệ được tìm thấy trong tranh mạn đà la Tây Tạng, nơi sử dụng bột màu. Hội họa như một phương tiện đã tồn tại hàng ngàn năm. Cùng với vẽ và điêu khắc, một trong những phương tiện sáng tạo lâu đời nhất. Nó được các nền văn hóa trên thế giới sử dụng dưới một số hình thức. 

Thành phần hội họa

1. Đường nét gồm mọi thứ từ phác thảo cơ bản đến các đường, các cạnh trên sắc thái của đối tượng vẽ cùng màu sắc. Đường nét giúp hoạch định và sửa chữa, phân biệt  mối quan hệ giữa các thành phần và các vùng khác nhau trên bề mặt tranh.

2. Hình dạng và khối giúp phân biệt sự khác nhau về vùng màu sắc, sắc thái và kết cấu của bất kỳ hình ảnh cụ thể nào đó trong tác phẩm hội họa.

3. Mắt người có thể xác định số lượng màu sắc lên đến 10 triệu màu, với một tác phẩm hội họa, màu sắc đóng nhiều vai trò quan trọng. Màu có thể được sử dụng như một hình ảnh tượng trưng, ví dụ, người Ai Cập cổ đại sử dụng các màu khác nhau để phân biệt các vị thần hay Pharaoh; cũng là để phân biệt giữa đàn ông và đàn bà. Màu sắc để truyền tải thông điệp về đạo đức, tâm trạng hoặc cảm xúc và thể hiện tầm nhìn (các sự vật ở xa thường có màu sắc nhạt hơn…). Màu sắc còn được dùng để mô tả những tác động của ánh sáng, nhiều họa sĩ vĩ đại như Caravaggio và Rembrandt…khai thác sự tương phản giữa màu sắc để thể hiện ánh sáng mạnh mẽ trong tranh ấn tượng.

Tương phản màu sắc trong tranh của Caravaggio

4. Yếu tố thể tích và không gian của hình ảnh có liên quan tới cách họa sĩ tạo ra chiều sâu và xử lí những mối quan hệ không gian của vật thể thực vào bên trong mặt phẳng tranh. Bức tranh của người Ai Cập cổ lấy góc độ, hướng nhìn để thể hiện đặc trưng của hình vẽ, giải thích vì sao phần đầu và chân của nhân vật là góc bán phần còn người là góc chính diện. Các họa sĩ truyền thống làm điều này bằng cách triển khai các nguyên tắc về đường tuyến tính – các khái niệm về điểm hút, cách chia bố cục trong tranh để tạo không gian theo mắt nhìn của con người – như trường phái Florentine Renaissance mà đại diện là Piero della Francesca hay Leonardo da Vinci. Trong khi đó, trường phái Lập thể như Picasso lại thể hiện không gian và khối lượng bằng hiển thị bằng một loạt các hình chồng chéo “ảnh chụp nhanh” – các hình ảnh của đối tượng ở các điểm nhìn khác nhau ghép, chồng lên nhau của các đối tượng, giống như khi ta xem hình ảnh cùng một lúc từ nhiều quan điểm khác nhau. 

Tranh Ai Cập cổ đại
Tác phẩm Baptism of Christ và bố cục hình học

5. Thời gian và chuyển động trong tranh giúp xác định hướng phát triển của câu chuyện đang được kể trong tác phẩm. Đây đồng thời là yếu tố cung cấp trải nghiệm về thời điểm, về tốc độ và phương hướng.

Tiến trình hội họa là gì? Trường phái hội họa là gì?

Song hành cùng quá trình phát triển văn hóa, lịch sử của con người, hội họa cũng sở hữu một tiến trình đặc trưng. Hội họa trải qua những bước đi đầu tiên với các hình vẽ trên vách hang động của người nguyên thủy, là những hình vẽ sơ khai nhất của con người về thế giới quan. Bằng sức mạnh của trí tưởng tượng, loài người tiến đến thời kì hội họa cổ điển (còn gọi là hội họa giá vẽ, hội họa hàn lâm) với quy chuẩn nghiêm ngặt như: phải vẽ trong xưởng, tranh phải dùng màu vẽ và vẽ trên một bề mặt phẳng, tả chi tiết, đúng các tiêu chí về mặt bố cục, nội dung…Qua nhiều diễn biến lịch sử cùng sự phát triển của khoa học, hội họa phát triển đa dạng và không còn “gò bó” trong những giới hạn của hội họa cổ điển. 

Hội họa phân nhánh qua các “trường phái hội họa”. Ở đây, thuật ngữ “trường phái” dùng để chỉ một phong cách mà trong đó phân loại một nhóm các họa sỹ có chung những kỹ thuật vẽ tranh và phương pháp thể hiện. Trong thời gian từ cổ điển đến hiện nay, đã có rất nhiều trường phái hội họa ra đời góp phần làm thay đổi quan điểm về thẩm mỹ của thế giới. 

Dụng cụ cơ bản để vẽ tranh

Tranh vẽ được hình thành nhờ màu vẽ và bề mặt vẽ. Những chất liệu khác nhau lại quyết định đặc điểm và kĩ thuật vẽ tranh riêng biệt. 

Màu vẽ là những chất hay hỗn hợp chất tạo màu có khả năng bám dính trên bề mặt, gồm chất màu được trộn lẫn trong một chất mang. Các tính chất của hai thành phần này như độ nhớt, độ hòa tan, tốc độ bay hơi…quyết định đặc trưng của các loại màu khác nhau.

Trong lịch sử, các hình vẽ trên hang động của người nguyên thủy được cho là vẽ với màu đỏ hay màu vàng của đất son, hematit, mangan oxit và than. Những bức tường màu cổ tại Dendera, Ai Cập cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên vẹn các yếu tố màu sắc sống động như khi được vẽ khoảng 2000 năm trước đây. Người Ai Cập cổ đại trộn màu sắc với một chất keo, gồm có sáu màu sắc chính là trắng, đen, xanh, đỏ, vàng và xanh lá cây.

Những bức tranh cổ điển thời gian đầu sử dụng lòng trắng trứng cùng với một số chất tạo màu (keo trứng) để làm màu vẽ, sau đó, sơn dầu xuất hiện và được coi là loại màu tốt nhất để thể hiện của hội họa. Cùng lúc đó, đáp ứng cho những mục đích vẽ khác nhau thì màu nước, màu sáp, bút chì, acrylic lần lượt ra đời…Hiện nay, sự tiến bộ của khoa học giúp tạo ra màu hóa học (phối trộn những màu không thể có trong tự nhiên) với sự đa dạng, độ bền tốt hơn nhiều lần so với trước kia.

Bề mặt vẽ phổ biến nhất của các tác phẩm hội họa là vải toan (canvas). Toan là loại vải sợi cứng, bền được dùng làm buồm, lều, ba lô…được các họa sĩ căng lên khung gỗ để vẽ thay cho các tấm bảng gỗ. Toan là phương tiện hỗ trợ tốt nhất cho sơn dầu. Đôi khi toan được xử lý bề mặt để làm tăng độ bám dính, độ bền của màu. Ngoài toan thì “bề mặt” vẽ tranh cũng có thể là gỗ, đá, vải thường, tường, giấy, da động vật, da người (body painting)….

2. Các yếu tố của hội họa

2.1. Màu sắc

Màu sắc (hay sắc độ) là trọng tâm của mọi tác phẩm hội họa. Được cho là yếu tố quan trọng nhất vì nó tạo nên cảm nhận của người xem về tác phẩm. Ví dụ, nó có thể ấm áp và mời gọi hoặc lạnh lùng và khắc nghiệt. Dù bằng cách nào, màu sắc có thể tạo nên tâm trạng cho một tác phẩM hội họa. 

2.1.1. Lý thuyết về màu sắc

Có vô số cách mà các họa sĩ có thể tạo ra với màu sắc. Thông thường, một nghệ sĩ có thể bị thu hút bởi một bảng màu cụ thể. Họ có xu hướng xác định phong cách của toàn bộ tác phẩm hội họa của họ.

Lý thuyết màu sắc là một chìa khóa để làm việc với màu sắc, đặc biệt đối với các họa sĩ. Mỗi màu mới đóng một vai trò quan trọng trong nhận thức của người xem về tác phẩm.

Màu sắc quyết định vẻ đẹp của hội họa

2.1.2. Kết hợp các màu sắc

Màu sắc được tạo thành từ sắc độ, độ bão hòa và giá trị, phân tán trên một bề mặt là bản chất của hội họa, cũng như cao độ và nhịp điệu là bản chất của âm nhạc. Màu sắc mang tính chủ quan cao, nhưng có tác động tâm lý quan sát được. Mặc dù chúng có thể khác nhau giữa các nền văn hóa. 

Màu đen được kết hợp với tang tóc ở phương Tây, nhưng ở phương Đông lại là màu trắng. Một số họa sĩ, nhà văn và nhà khoa học đã viết lý thuyết màu sắc của riêng họ. Hơn nữa, việc sử dụng ngôn ngữ chỉ là sự trừu tượng đối với một màu tương đương. 

Ví dụ, từ “đỏ” có thể bao hàm một loạt từ màu đỏ thuần của quang phổ ánh sáng nhìn thấy được. Không có một sổ đăng ký chính thức nào về các màu sắc khác nhau. Đối với một họa sĩ, màu sắc không đơn giản được chia thành các màu cơ bản (chính) và có nguồn gốc (như đỏ, xanh dương, xanh lá cây, nâu,…)

2.2. Tông màu sắc trong hội họa

Tông màu là một yếu tố của hội họa. Về cơ bản, màu sơn sáng hay tối phụ thuộc vào các tông màu sơn. Việc hiểu cách sử dụng nó có thể ảnh hưởng rất nhiều đến cách cảm nhận nghệ thuật của bạn.

Mỗi màu sơn đều có nhiều tông màu gần như vô tận. Bạn có thể trộn nó với sơn trung tính để điều chỉnh tông màu của nó theo cách bạn muốn. Một số bức tranh hội họa có phạm vi tông màu rất hạn chế. Trong khi những bức tranh khác lại có sự tương phản rõ rệt về tông màu.

Ở mức cơ bản nhất, tông màu có thể được nhìn thấy rõ nhất trong thang độ xám. Màu đen là giá trị tối nhất và màu trắng là màu sáng nhất. Một bức tranh hội họa toàn diện thường có cả hai điều này, với các điểm nổi bật và bóng đổ làm tăng hiệu ứng tổng thể của tác phẩm. 

Tông màu tạo nên vẻ khác biệt cho tác phẩm hội họa

2.3. Đường nét trong hội họa

Trong khi chúng ta có xu hướng nghĩ đến các đường nét khi vẽ và các họa sĩ cũng phải tập trung vào nó. Sau cùng, mỗi nét vẽ bạn thực hiện sẽ tạo ra một đường thẳng. Và đó là một yếu tố quan trọng trong hội họa.

Đường thẳng được định nghĩa là một dấu hẹp được tạo bởi bút vẽ hoặc một đường được tạo ra ở nơi hai đối tượng hoặc phần tử gặp nhau. Nó xác định chủ đề của tác phẩm hội họa và giúp chúng ta ngụ ý những thứ như chuyển động.

Người vẽ cũng nên lưu ý về các loại đường kẻ khác nhau. Trong số này có những đường ngụ ý, những đường không được vẽ mà thay vào đó được ngụ ý bởi những nét vẽ xung quanh nó.

Các họa sĩ phong cảnh, đặc biệt, thường quan tâm đến đường chân trời. Các họa sĩ thuộc mọi phong cách có thể thêm kích thước vào tác phẩm của họ. Bằng cách sử dụng các đường trực giao và đường ngang có trong bản vẽ.

2.4. Hình dạng

Mỗi tác phẩm nghệ thuật hội họa đều bao gồm nhiều yếu tố. Như hình dạng, liên kết với đường nét và không gian. Về bản chất, hình dạng là một vùng kín được tạo ra khi các đường giao nhau. Khi hình dạng đó có chiều thứ ba, thì chúng ta cũng có hình dạng.

Các nghệ sĩ thường rèn luyện bản thân để nhìn thấy hình dạng trong mọi thứ. Bằng cách phá vỡ các hình dạng cơ bản của một chủ thể, nó tạo ra một sự thể hiện chính xác của nó trong các bức tranh và tác phẩm hội họa.

Ngoài ra, hình dạng có thể là hình học hoặc hữu cơ. Trước đây là hình tam giác, hình vuông và hình tròn mà chúng ta đều quen thuộc. Sau đó hình dạng không được xác định rõ hoặc những hình dạng được tìm thấy trong tự nhiên.

2.5. Không gian

Không gian (hoặc thể tích) là một yếu tố quan trọng khác trong bất kỳ nghệ thuật nào nói chung và hội họa nói riêng. Và nó có thể được sử dụng để tạo hiệu ứng tuyệt vời trong các bức tranh. Về không gian trong nghệ thuật, chúng ta nghĩ đến sự cân bằng giữa tích cực và tiêu cực.

Không gian dương là chủ thể trong khi không gian tiêu cực là khu vực của bức tranh xung quanh nó. Nghệ sĩ có thể cân bằng giữa hai không gian này để tác động nhiều hơn đến cách người xem diễn giải tác phẩm của họ.

Ví dụ một cảnh quan có cây nhỏ hơn và đường chân trời (không gian dương) cho phép bầu trời (không gian âm) chiếm gần hết khung hình có thể tạo ra một tuyên bố rất mạnh mẽ. Vẽ một bức chân dung trong đó chủ thể (dương tính) nhìn về hướng không gian tiêu cực. Điều đó có thể hấp dẫn như khi họ nhìn thẳng vào người xem.

Không gian trong hội họa

2.6. Kết cấu

Tranh sơn dầu và cách chúng được áp dụng trên canvas có thể giúp tranh có chiều sâu hơn. Nếu bạn lấy màu ra khỏi bức tranh của Van Gogh và xem nó ở dạng đen trắng. Sẽ thây kết cấu nét vẽ của ông sẽ nổi bật một cách đáng kể. 

Kết cấu cũng có thể là một thách thức đối với các họa sĩ trong việc thể hiện hội họa. Khó tái tạo bề mặt sáng bóng của thủy tinh hoặc kim loại hoặc cảm giác thô ráp của đá. Chính trong những đồ vật như thế này, một họa sĩ có thể dựa vào các yếu tố khác của hội họa – đặc biệt là đường nét, màu sắc và tông màu – để xác định rõ hơn kết cấu.

2.7. Kích thước

“Kích thước” đề cập đến tỷ lệ của chính bức tranh và tỷ lệ các yếu tố của bức tranh.

Mối quan hệ giữa các đối tượng vô tình làm gián đoạn nhận thức và sự thích thú người xem. Ví dụ, một quả táo lớn hơn một con voi không phải tự nhiên mà có. Ít nghiêm trọng hơn, mắt, môi và mũi của một người nào đó có kích thước cân đối cụ thể.

Khi nói đến việc xác định kích thước của bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào, họa sĩ có nhiều điều phải xem xét. Những tác phẩm hội họa quá khổ có thể gây ấn tượng như một tác phẩm rất nhỏ. Và cả hai đều có những thách thức riêng. Ở nhiều cấp độ, kích thước là một cân nhắc lớn nhất đối với bất kỳ nghệ sĩ nào. 

Các tác phẩm hội họa đẹp

Năng Khiếu ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐️

👩🏻‍🎨 GIA SƯ VẼ

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*